Phỏng Vấn
Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ
Tác giả Bút ký Tôi Phải Sống
Nhóm Thân Hữu của LM Nguyễn Hữu Lễ
LỜI GIỚI THIỆU:
Suốt
thời gian hơn 13 năm qua, Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ là một trong số những vị
lãnh đạo tinh thần tại hải ngoại liên tục dấn thân và bền bỉ đấu tranh cho tự
do tôn giáo và nhân quyền tại Việt Nam. Ngay từ thuở thiếu thời LM Nguyễn Hữu
Lễ đã chọn con đường làm Linh mục với lý tưởng phục vụ tha nhân, và từng bị
cộng sản bắt vì tội chống chế độ và bị đi tù suốt 13 năm trong đó có 11 năm
tại các trại tù khét tiếng tàn ác nhất Miền Bắc. Chính
những kinh nghiệm đầy máu và nước mắt trong suốt những năm tháng bị tra tấn,
bị hành hạ trong những nhà tù cộng sản, cộng với tấm lòng yêu thương tha
thiết dành cho đất nước và dân tộc Việt Nam, nên suốt thời gian 10 năm qua,
LM Nguyễn Hữu Lễ đã cặm cụi viết cuốn bút ký Tôi Phải Sống dầy gần 700 trang.
Nhân dịp tác phẩm Tôi Phải Sống của Linh Mục Nguyễn Hữu Lễ lần lượt được giới
thiệu tại 4 thành phố lớn trên nước Úc (10/1/04 tại Sydney, 11/1/04 tại
Melbourne, 17/1/04 tại Adelaide; và 18/1/04 tại Brisbane) chúng tôi, nhóm
thân hữu (NTH) của LM Nguyễn Hữu Lễ, đã vội gửi cho Ngài một số câu hỏi qua
email, và được Ngài trả lời ngay trước khi Ngài rời Tân Tây Lan để qua Úc.
Sau đây là những câu hỏi của chúng tôi và câu trả lời của LM Nguyễn Hữu Lễ. NTH: Kính thưa Cha, trước hết, xin
Cha cho biết tóm tắt tiểu sử cuộc đời của Cha? |
Lm. NHL: Tôi sinh
ngày 9 tháng 11 năm 1943 trong một gia đình nông dân tại một vùng quê trong
tỉnh Vĩnh Long, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu Long. Sau khi học xong ban Tú tài
vào năm 20 tuổi, tôi chọn con đường làm Linh mục và đã theo học 7 năm trong Đại
Chủng Viện Thánh Giuse tại Sàigòn. Tôi thụ phong Linh mục năm 27 tuổi và phục
vụ tại 3 giáo xứ trong giáo phận Vĩnh Long được 5 năm thì miền Nam vào tay cộng
sản. Đầu năm 1976 tôi bị cộng sản bắt và đi tù cho tới cuối năm 1988 được thả
ra. Ba tháng sau khi ra tù, tôi vượt biên qua Thái Lan. Năm 1990, tôi được Giám
mục Denis Browne của Giáo Phận Auckland, New Zealand mời qua phục vụ trong Giáo
phận Auckland. Vào tháng 2 năm 2004 này, tôi được bổ nhiệm làm cha xứ một giáo
xứ người Tân Tây Lan, đồng thời phụ trách Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam tại New
Zealand.
NTH: Kính thưa
Cha, điều gì đã thôi thúc khiến Cha bỏ ra 10 năm trời để viết tác phẩm Tôi Phải
Sống?
Lm. NHL: Trước tiên
tôi phải nói ngay, vì yêu thương và gắn bó với Dân Tộc Việt Nam của chúng ta mà
tôi viết tác phẩm này. Đó là nguyên nhân sâu xa và tiềm ẩn mà độc giả có thể
nhận thấy bàng bạc nhiều nơi trong tập Bút Ký Tôi Phải Sống (TPS). Nhưng cụ thể
hơn, tôi có thể nói tới 3 nguyên nhân gần đã thúc đẩy tôi viết tập bút ký dày
gần 700 trang mà tôi đã dành ra đúng 10 năm, viết đi viết lại nhiều lần, và vừa
hoàn thành trong mùa hè năm 2003.
Nguyên
nhân 1: Tôi muốn ghi lại cái nhìn của tôi về tình cảnh quê hương và
Dân Tộc Việt Nam từ ngày tôi có trí khôn cho tới lúc này, cùng với tâm tình và
suy tư của tôi qua các giai đoạn của lịch sử Dân Tộc. Tôi đã ý thức rất sớm
rằng Dân Tộc Việt Nam của chúng ta là một dân tộc bất hạnh về nhiều phương
diện. Độc giả có thể cảm thông được với tôi trong chương đầu của cuốn sách có
tất cả 11 chương này.
Nguyên
nhân 2: Trong những năm tù tội kéo dài, có lúc tôi bị cùm chân 3
năm trong nhà kỷ luật trại tù Thanh Cẩm tại miền Bắc. Trong hoàn cảnh đó tôi đã
thực sự chia sẻ đến tột cùng nỗi khổ đau của Dân Tộc Việt Nam dưới chế độ lao
tù dã man của cộng sản. Tôi đã trải qua cảnh đói khát, trần truồng, chết ngạt
vì buồng giam không có cửa sổ và lại bị cùm chân suốt 3 năm trời.
Một ngày kia tôi lớn tiếng kêu xin cán bộ cho áo quần
mặc vì «Tôi là con
người chứ không phải là con thú mà sống trần truồng. Nếu tôi chết trong nhà tù
này thì thôi, còn nếu sống sót tôi phải tìm cách nói cho thế giới biết sự đối
xử dã man của chế độc CSVN đối với tù chính trị».
Nguyên
nhân 3: Và đây là nguyên nhân mãnh liệt nhất thúc đẩy tôi phải viết
bút ký TPS để muốn nói với tất cả đồng bào Việt Nam, nhất là với thế hệ trẻ
rằng: «Đừng ngồi đó để ngâm nga lịch sử nhưng hãy dùng lịch
sử như ngọn đèn soi sáng cho con đường Dân Tộc ta phải đi.», và «Hãy để cho bóng tối đi qua
và cùng nhau hướng về nguồn ánh sáng của Bình Minh Dân tộc.» Những tư tưởng này được thể hiện rõ nét trong hình bìa tập
Bút Ký TPS.
NTH: Xin Cha có
thể tóm tắt một cách ngắn gọn nội dung tác phẩm Tôi Phải Sống?
Lm. NHL: Tôi có thể
so sánh Bút ký TPS như một chiếc xe chở du khách đi thăm một nhà máy, một cơ
xưởng kỹ nghệ hoặc một khu giải trí như Disneyland chẳng hạn. Chiếc xe TPS này
đang chở tôi và một số đông người đang chạy thật chậm qua suốt chiều dài của
lịch sử Việt Nam trong vòng nửa thế kỷ qua. Mời bạn đọc lên xe cùng với tôi để
có thể thấy được những gì mà đôi lúc chúng ta không tin được vào đôi mắt của
mình. Tôi không thể diễn tả bằng một vài câu nói ngắn gọn, nhưng muốn dành cho
độc giả sự cảm nhận tột cùng khi cầm cuốn Bút ký TPS trên tay.
Nhưng có cái khác nhau thật quyết liệt là những chiếc
xe chở du khách sau khi đi một vòng sẽ quay về địa điểm xuất phát, riêng «chiếc xe TPS» sẽ không
quay trở lại điểm khởi hành mà sẽ tiến thẳng mãi tương lai, hướng về nguồn ánh
sáng của Bình minh Dân tộc. Và đây mới là điều đáng nói.
NTH: Trong bài
viết, «Đọc Tôi Phải Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ», tác giả Trần Bình Nam (Hoa Kỳ) đã nhận xét, «Ở hải ngoại không thiếu hồi ký về
tù đày. Nhưng thiếu một cuốn hồi ký mà ngoài đói khát và khổ nhục trong nhà tù
người ta tìm thấy những suy tư nặng trĩu về đất nước và dân tộc. Cuốn Tôi Phải
Sống của Linh mục Nguyễn Hữu Lễ là cuốn sách đó.» Thưa Cha,
như vậy qua cuốn Tôi Phải Sống, Cha muốn gửi gắm tới độc giả những suy tư gì về
đất nước và dân tộc?
Lm. NHL: Ông Trần
Bình Nam là nhà bình luận mà tôi hằng kính trọng, ông đã chia sẻ với tôi những
gì tôi muốn nhắn gửi vào những trang giấy của TPS. Thật vậy, nếu độc giả nào
chỉ muốn đọc thoáng qua cho biết câu chuyện, hoặc chỉ đọc «những đoạn gay cấn, hồi hộp» thì tôi
thành thật khuyên không nên đọc bút ký TPS sẽ phí thì giờ (và dĩ nhiên là phí
tiền!). Điều chắc chắn là tôi không để tâm trí, thì giờ và công sức trong 10
năm trời để viết các chuyện như vậy. TPS không phải là một «Hồi Ký» để ghi
nhớ lại các sự kiện, nhưng TPS là một «Bút Ký» đã biến các sự kiện như là cái cớ cho những suy tư đàng sau
các sự kiện đó.
Nhà văn Trần Trung Đạo, trong bài giới thiệu tác phẩm
TPS dịp ra mắt sách tại Boston vào ngày 1 tháng 11 vừa qua, đã viết: «Cuộc đời trầm luân thống khổ của
Linh mục Nguyễn hữu Lễ từ trước cổng trời cho đến tầng cuối của địa ngục nhân
gian, nói cho cùng, không phải là lý do của tác phẩm nhưng nó chỉ là cái cớ cho
cuộc hành trình chữ nghĩa của ông mà thôi. Ông đã dùng khổ đau của mình để
gióng lên tiếng kêu trầm thống của dân tộc Việt Nam.» Lời nhận xét đó của nhà văn Phật tử Trần Trung Đạo đã
một phần nào nói thay cho tôi về chủ ý khi viết bút ký TPS.
Để trả lời câu hỏi của anh, tôi xin mượn lời của Linh
mục Trần Cao Tường tại New Orleans. Linh mục Trần Cao Tường được coi là nhà tư
tưởng sâu sắc trong số các Linh mục Việt Nam hải ngoại đã có nhận xét về TPS
trong bài viết «Thời điểm Linh mục Nguyễn Hữu Lễ: Tôi Phải Sống» như sau: «Từ lâu tôi vẫn nghĩ, thế nào rồi từ những đày đọa cùng tột, từ những xâu
xé tương tàn phi lý ghi đậm một vết nhơ nhất của lịch sử dân tộc mình, cũng sẽ
nẩy sinh ra những tác phẩm lớn, có sức bật sáng và đánh thức, mở cửa thay
chuyển cả một hướng đi, và hồi sinh như bông hoa hướng dương mọc lên từ nấm mồ
thối tha đen kịt.»
Chỗ khác Lm Trần Cao Tường viết: «Phải đọc tới cuối chuyện người ta mới thấy được khá rõ điều tác giả muốn
nói trong suốt những bước ngoặt ngoèo tại sao “Tôi phải Sống”. Toàn tập Bút Ký
rất có giá trị này không những chỉ nhằm nói lên cõi ác tối tăm đen thăm thẳm
trong những năm tù đày của mình và của biết bao người như nhiều người đã nói,
mặc dù rất khủng khiếp, nhưng chính là để cho thấy sự vượt thắng của cái Thiện,
của Nhân Ái, của Thứ Tha, của Tình Thương của Đấng vẫn dẫn đầu hướng đi lịch sử
của đời mình và của cả dân tộc. Chính chất Nhân Ái này mới có đủ nhựa sống làm
hồi sinh những bông hoa hướng dương kia, mà mới là chất keo gắn liền tình dân
tộc, mở ra viễn kiến chung cho dân tộc.»
Cha Tường kết luận: «Như thế, “Tôi
Phải Sống” không phải là tập Bút Ký mang màu sắc chính trị nào cả, nhưng là một
lời chứng hùng hồn về sức mạnh của Tình Thương thắng được bạo tàn, mở ra một
viễn kiến về một bình minh dân tộc, vượt lên trên được mọi xung khắc để góp
phần khai triển bộ Kinh Tin dân tộc. Và cũng chính vì thế mà nhiều người đang
nhìn thấy “Tôi Phải Sống” quả là một thời điểm, một tác phẩm lớn, mang tính
lương tri nhân bản lấy lại phẩm giá cho chủng loại người, và góp phần thổi sinh
khí cho một Việt Nam phục sinh trong một viễn kiến chung. Với sức hút nổi bật
như thế, chẳng lạ gì, “Tôi phải Sống” đã trở thành một hiện tượng lạ với số
sách bán chạy nhất trong lịch sử văn học Việt Nam từ xưa tới nay trong nước
cũng như ngoài nước. Vì “Tôi phải Sống” không phải chỉ được viết bằng óc, bằng
tim, mà bằng máu, bằng chính mạng sống. Và nhất là bằng chính con đường tìm ra
lẽ sống.” »
NTH: Đọc cuốn
hồi ký, thấy được cuộc đời chìm nổi của Cha, nhất là giai đoạn 13 năm Cha bị tù
đầy trong chế độ CS, nhiều người phải thừa nhận, cuộc đời của Cha là một chuỗi
liên tục những phép lạ. Phải chăng những phép lạ đó dễ đến với một người có Đức
Tin hơn là với một người không có Đức Tin?
Lm. NHL: Nhớ lại
quãng đời lăn lộn chìm nổi trong ngục tù, ngoài tất cả những gì mà người đời
thường nói là «số phận an bài», tôi còn
xác tín là có những «phép lạ» hiểu theo nghĩa nhẹ nhàng nhất. Dĩ nhiên vì là con người có
niềm tin tôn giáo và tôi luôn sống bám vào niềm tin đó và tôi thực sự nhận biết
rằng, chính nhờ niềm tin đó mà tôi còn tồn tại cho tới ngày hôm nay.
Nhà sử học Nguyễn Đức Cung, là người bạn tù trong
trại Nam Hà với tôi trước kia, khi nhận xét về Bút Ký TPS trong ngày ra mắt
sách tại thành phố Philadelphia, bang Pennsylvania, có nhận xét như sau: «Trước hết, tôi cho rằng Bút ký Tôi
Phải Sống được xây dựng trên một nền tảng vững chắc là đức tin Ki-tô Giáo mà
tác giả ngay từ thời ấu thơ đã hấp thụ được từ một nền giáo dục gia đình Công
Giáo. Tôi đã cẩn thận đọc và thấy trong suốt tập Bút ký Tôi Phải Sống đã có
trên 30 chỗ nhắc đến việc cầu nguyện, từng trường hợp có một ý nghĩa khác nhau.»
Để kết luận, nhà sử học Nguyễn Đức Cung viết: «Tuy nhiên, Bút ký Tôi
Phải Sống không kết thúc ở việc đòi hỏi công lý cho những người bị thua thiệt
mà tầm vóc tác phẩm đã được vươn lên vị trí cao hơn khi tác giả kêu gọi sự tha
thứ và tình thương nơi con người: 'Không bao giờ oán trách con người, không bao
giờ thù hận con người, không bao giờ tiêu diệt con người, nhưng bằng mọi giá
phải loại bỏ bất cứ chế độ xấu xa nào đã khuyến khích và dung dưỡng sự hận thù
giữa người với người, và thay vào đó một xã hội lành mạnh để con người được
phát triển phần LƯƠNG THIỆN của mình.' »
NTH: Thưa Cha,
Cha là vị Linh mục nổi tiếng với câu nói: «Trước khi làm Linh Mục, tôi là một người Việt Nam». Và kể từ khi được thụ phong Linh Mục vào ngày 29 tháng 4
năm 1970 cho đến nay, trải qua thời gian ngót 34 năm, ai cũng thấy, Cha càng
sống đúng với thiên chức của một vị Linh Mục bao nhiêu, Cha càng xứng đáng là
một người Việt Nam yêu nước cao qúy bấy nhiêu. Như vậy, thưa Cha, thiên chức
của một linh mục và trách nhiệm cao qúy của một người VN yêu nước, đâu có gì
mâu thuẫn?
Lm. NHL: Tôi xin đặt ngược lại câu hỏi này
của anh: «Tại sao khi làm linh mục, tôi
không thể là một người Việt Nam yêu nước?» Trong hơn 10 năm qua, tôi đã theo
đuổi mục tiêu tranh đấu cho nhân quyền và dân chủ cho dân tộc Việt Nam và tôi
đã gặp nhiều người cũng đặt câu hỏi này. Tôi đã trả lời một cách công khai và
dứt khoát là tôi không thấy có gì gọi là mâu thuẫn trong việc một linh mục Việt
Nam quan tâm và chia sẻ sự bất hạnh của dân tộc Việt Nam.
Tôi không nghĩ rằng đã là linh mục thì chỉ biết việc
nhà thờ và bỏ mặc cho số phận dân tộc mình muốn ra sao thì ra! Tôi không nghĩ
rằng một linh mục là phải sống bên lề cuộc tranh đấu chung của dân tộc trong
việc đòi hỏi quyền làm con người của dân tộc mình đang bị những thế lực đen tối
cướp đoạt. Dĩ nhiên có những phạm vi hoạt động không phù hợp với cương vị linh
mục như hoạt động trong các đảng phái chính trị, nắm giữ các chức vụ dân cử
hoặc các chức vụ trong chính quyền. Các vai trò đó không phù hợp với linh mục,
nhưng việc nhận biết và lên tiếng tố cáo sự bất công xã hội và hỗ trợ cho những
phong trào tranh đấu đòi hỏi công bằng xã hội là việc mà tôi nghĩ là nhiệm vụ
của tất cả mọi người. Và dĩ nhiên là việc làm của tôi.
Nếu hiểu việc tranh đấu cho công bằng xã hội vì hạnh
phúc của dân tộc là một hành động chính trị thì tôi rất hãnh diện tự nhận mình
là một linh mục làm chính trị trong phạm vi này. Tôi vẫn quan niệm rằng Thiên
Chúa đã ban cho tôi chức vụ linh mục, hoàn cảnh đã cho tôi có dịp chia sẻ sự
đau thương tột cùng của dân tộc và hiện nay tôi có điều kiện thuận tiện để bày
tỏ cảm nghĩ và hành động của mình để đóng góp vào cuộc tranh đấu chung của dân
tộc Việt Nam. Nếu tôi giữ thái độ im lặng và quay lưng lại số phận dân tộc, tôi
sẽ là một người hèn nhát, kẻ đáng bị nguyền rủa và là kẻ có tội với Thiên Chúa
và Dân Tộc của tôi.
NTH: Kính thưa
Cha, đọc cuốn hồi ký của Cha, có thể nói, vượt lên trên những kinh hoàng về đói
khát, tra tấn... mà người tù cải tạo phải chịu đựng qua sự hành hạ của người
CS, người đọc còn thấy được sự bất hạnh của dân tộc Việt Nam khi chính những
người dân VN hiền lành, chất phác, thậm chí còn ngây thơ, cũng bị CSVN đầu độc
tuyên truyền, trở thành công cụ của chế độ.
Thí dụ như khi Cha mô tả đoàn xe chở tù cải tạo trong
đó có Cha đi trên đường bị người dân miền Bắc ném đá và tiếng la hét của trẻ
con: «ĐM chúng mày, lũ ngụy, lũ uống máu ăn gan người» (tr.262). Hay như khi Cha và một số tù cải tạo vượt ngục,
trốn trong một bụi rậm bên dòng sông Mã bị một người đàn bà đánh cá trên sông
chỉ điểm cho cán bộ võ trang CS bắt lại (tr.412)... Thưa Cha, trước những bi
kịch đầy băng hoại và vô cùng nguy hiểm đó, đâu là lối thoát cho dân tộc VN?
Lm. NHL: Trong tập
Bút ký TPS, tôi không chủ ý kết án một cá nhân hoặc một chế độ nào. Tôi chỉ
trình bày số phận đau thương của Dân Tộc Việt Nam trải qua nhiều chế độ và
nhiều thế lực đen tối khác nhau. Dĩ nhiên tôi không phải là nhà phân tích chính
trị, nên tôi không có thể so sánh chủ thuyết chính trị này với chủ thuyết khác,
cái nào hay cái nào dở. Tôi chỉ lấy hậu quả các việc làm của một chế độ đối với
dân tộc Việt Nam để nhận xét về chế độ đó. Tôi vẫn biết là không thể có chế độ
nào được coi là hoàn hảo.
Mỗi chế độ chính trị đều có cái bất toàn của nó.
Nhưng loại chế độ tôi lên án nặng nề và coi đó là tội đồ của dân tộc là chế độc
làm tan nát tình dân tộc khi khuyến khích sự chia rẽ và hận thù giữa người với
người, đầu độc thế hệ trẻ trong sự hận thù như anh nhắc tới trong câu hỏi. Hơn
nữa trong Bút ký TPS tôi có nói, suốt trong chiều dài của lịch sử dân tộc Việt
Nam cho tới nay tôi lên án nặng nề nhất chế độ đã biến ngày Tết là ngày Đại
Phúc thiêng liêng của Dân Tộc thành ra ngày Đại Tang của Dân Tộc. Tội ác này đã
xảy ra một lần vào Tết Mậu Thân 1968 trên quê hương chúng ta. Những kẻ chủ
trương việc làm đó là kẻ tội đồ của Dân Tộc VN.
NTH: Kính thưa
Cha, được biết trong thời gian 3 tháng qua, tác phẩm Tôi Phải Sống của Cha đã
được qúy đồng hương tại Mỹ, Canada đón tiếp nồng nhiệt với trên 12 ngàn cuốn
đến tay độc giả. Xin Cha cho biết, nguyên nhân nào khiến tác phẩm được đồng
hương đón tiếp một cách đặc biệt như vậy?
Lm. NHL: Lúc đầu
tôi chỉ in 2 ngàn cuốn TPS, nhưng sau nửa tháng ra mắt sách tại California tôi
phải in thêm và rồi phải in thêm tới con số 15 ngàn cuốn. Đã có 12 ngàn cuốn
được trao tận tay đồng hương ở Mỹ và Canada trong vòng 3 tháng qua. Tôi hy vọng
số còn lại sẽ đáp ứng được sự đón nhận của bà con tại Úc Châu và Âu Châu. Tôi
có chương trình tới thăm quý đồng hương và giới thiệu Bút Ký Tôi Phải sống tại
4 thành phố Úc Châu: Sydney ngày 10 tháng Giêng, Melbourne ngày 11, Adelaide
ngày 17 và Brisbane ngày 18. Riêng tại Âu Châu tôi sẽ ra mắt sách vào tháng
5-2004.
Theo tôi biết, có khá nhiều nguyên nhân khiến cho TPS
được nồng nhiệt nhận. Có điều tôi không tiện nói, tôi nghĩ là dành cho các độc
giả nói thay thì hay hơn. Dù sao tôi nghĩ rằng độc giả sẽ hiểu được sau khi đọc
xong Bút ký TPS.
NTH: Thưa Cha,
Cha có thể kể một vài kỷ niệm đáng nhớ trong những dịp ra mắt sách tại Mỹ và Canada?
Lm. NHL: Trong thời
gian 2 tháng rưỡi (từ 14 September tới 7 December 2003) tôi đã bay qua 16 tiểu
bang Hoa Kỳ và Canada để ra mắt sách tại 21 thành phố lớn có đông đồng bào Việt
Nam. Điều tôi ghi nhận một cách vui mừng là tại 21 địa điểm đó, đồng hương đã
tới tham dự đông nhất trong các dịp ra mắt sách tại địa phương từ trước tới
nay, và hay hơn nữa là bà con ở nán lại tới giây phút cuối của chương trình. Dĩ
nhiên là tôi có khá nhiều kỷ niệm đáng nhớ trong những lần ra mắt sách đó. Tôi
chỉ kể vài trường hợp điển hình.
Trong lần ra mắt sách tại Nam California do Đài Phát
Phát Thanh Little Saigon tổ chức, lần đó tôi đã ký 813 cuốn TPS và không còn
một cuốn nào cho lần ra mắt sách tại San Jose tuần sau! Tôi vội vàng tìm, và
may mắn là tìm được một nhà in chịu in cho vài ngàn cuốn sách trong vòng... 4
ngày, thay vì 1 tháng như thường lệ. Kỷ niệm vui đáng nhớ khác là tại New
Orleans, bang Louisiana vào ngày 18 tháng 10, chính các linh mục trong vùng,
đại diện bởi Linh mục Phạm Văn Tuệ, đứng ra tổ chức buổi ra mắt sách TPS trong
các giáo xứ. Tại Orlando, Florida vào ngày 28 tháng 11, do Ông Phạm Ngọc Cửu là
Hội trưởng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất làm trưởng ban tổ chức. Tại
Atlanta, bang Georgia vào ngày 30 tháng 11, do ông Nguyễn Tấn Đức, Hội trưởng
Phật Giáo Hòa Hảo làm trưởng ban tổ chức.
Nói chuyện vui cũng phải nói chuyện buồn, tại
Houston, bang Texas vào ngày 12 tháng 10, tôi đã nhờ người gửi tặng sách một
linh mục dòng Đaminh, nghe nói còn khá trẻ, cai quản một cộng đồng Công Giáo
Việt Nam lớn tại Houston. Sau đó tôi gọi điện thoại:
«Thưa cha,
con là cha Nguyễn Hữu Lễ, con sẽ tới Houston để ra mắt sách, xin cha giúp thông
báo giùm với giáo dân.» Tôi nghe tiếng đáp:
«Nhưng sách
của cha là sách chính trị tôi không giúp được.» Tôi nói
tiếp:
«Thưa cha,
nhưng cha đã đọc sách của con chưa?» Đầu dây bên kia có tiếng đáp:
«Tôi chưa
đọc!» Tôi hỏi:
«Cha chưa
đọc tại sao cha biết sách của con là sách chính trị.»
Tôi không nghe tiếng trả lời nhưng nghe tiếng gác máy
điện thoại khá mạnh! Tôi thở dài ngao ngán!
Kỷ niệm buồn vui lẫn lộn là trong lần ra mắt cuối
cùng tại Oklahoma City do Khu Hội Cựu Tù Nhân Chính Trị Oklahoma tổ chức vài
ngày trước khi tôi trở về New Zealand. Sau khi tôi đã liên lạc xin phép cha xứ
và mướn hội trường của giáo xứ, và 500 thư mời đã được gửi ra. Còn 6 ngày nữa
ra mắt sách thì Hội Đồng Giáo Xứ nhập cuộc! Họ đặt vấn đề với Ban Tổ Chức
(BTC), đây là việc chính trị và yêu cầu phải cho họ duyệt tất cả những bài phát
biểu, cả những gì tôi sẽ nói. Nếu không họ sẽ đóng cửa hội trường mặc dù đã có
sự đồng ý của cha xứ!
Lúc đó BTC và tôi đau xót nghĩ thầm: «Mình đã trốn chạy một chế độ bất
nhân, tước đoạt quyền tự do tư tưởng của con người để chạy qua đây, giờ lại gặp
mấy ông Hội Đồng Giáo Xứ này thật là khổ thân. Biết chạy đâu bây giờ!?» Lúc BTC và tôi đang lâm vào thế bí như vậy thì may
mắn có đôi vợ chồng trẻ người Phật Giáo, chủ nhà hàng Biên Hòa, sẵn sàng cho
BTC sử dụng nhà hàng một buổi tối với giá tượng trưng, nhờ đó chúng tôi không
phải thất hứa với đồng bào tại Oklahoma City.
NTH: Phần cuối
của tác phẩm Tôi Phải Sống, Cha có cho biết là tương lai, Cha sẽ xuất bản một
cuốn sách kể về bước đường Cha đã trải qua trong cuộc đấu tranh giành tự do
nhân quyền và tôn giáo cho VN. Xin Cha nói rõ hơn về ý định này?
Lm. NHL: Trong 12
năm qua tôi đã đi lại rất nhiều lần và nhiều nơi trên thế giới để gặp gỡ đồng
hương, làm việc với các tôn giáo bạn, vận động với các chính khách, các quốc
hội và các cơ quan vận động cho Nhân Quyền trên thế giới. Tôi đã ghi lại những
kinh nghiệm đó và những «buồn vui» tôi đã gặp, chẳng hạn như chuyện ra mắt sách các nơi tôi
vừa nói bên trên. Tôi nghĩ rằng khi nào thuận tiện tôi sẽ cho in thành sách để
giúp nhiều người hiểu và cảm thông được với tôi trong quãng thời gian đó. Dù
vậy, sau khi Bút Ký Tôi Phải Sống ra đời và được nhiều người nhiệt tình đón
nhận, tôi nghĩ là trong năm 2004 này tôi phải tập trung công sức lo hoàn thành
ấn bản tiếng Anh của tập Bút ký Tôi Phải Sống mà chúng tôi còn đang làm việc dở
dang.
No comments:
Post a Comment