Ông
Ngô Đình Nhu,
Nhà Chính Trị Đại Tài
Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố
Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét: Người Mỹ có
trách nhiệm nặng nề trong việc vụ ám sát xấu xa này.
Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp…
Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam
có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tìm được một lãnh tụ cao quí như vậy [1].
Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu [2], tôi
nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay
nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như
ông Nhu..
Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm
giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện
đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc,
Hoa Kỳ và Âu châu... người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế
về Việt Nam đã dành cho một chút cảm tình và nể trọng về kiến thức chuyên môn
và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần thiết của một
người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công nhận rằng, trong tất
cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp đọc trong hơn 30 năm qua vì sở
thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đòi buộc phải đọc bằng Việt, Pháp
và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất
giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó
đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển
cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này
của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng
chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc
sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng
đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chính Đề
Việt Nam .
Vì tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết
tin rằng dịch giả đã rất xuất sắc trong khi chuyển ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã
diễn tả một cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các
vấn đề. Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua
các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền
Đệ Nhất Cộng Hòa [3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính
xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẽ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể
hiện được.
Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận,
một phần nào, với cách luận giải và trình bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề
chính trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đã quyết định trích nguyên văn
những phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này... Và
người viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư
của mình.
Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự
ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nửa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét
Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại
trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu
sẽ tập hợp lại với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu
ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên
đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra
những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử
và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư.
Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp
dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ
thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa học,
thực tiển và hợp lý nhất.
Vì tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan
đến kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên Sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ...
và cả trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết
này. Do đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn
đề Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường
Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50 năm trước đây,
ông Nhu đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm lại chính sách ngoại
giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để
chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một
chính trị gia và cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta.
Sự Thiển Cận Của Nhà
Cầm quyền Hà Nội.
Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính
cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi
hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những
vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hãi đó của Trung Quốc, họ
đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên
Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai
khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận
viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc… như Ấn Độ. Trái lại, việc cam
tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh
với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng
khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả
về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mạng của người Việt, trong suốt
hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã
là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.
Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn
thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau:
Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa,
các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn
nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần
lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi
phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực
mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra
giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.
Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận
độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh
Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai
đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.
Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và
không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta.
Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội
Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa
thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung
Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt
gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi
như bị tạm mất.
Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương
tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm
ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do
nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh.
Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại
Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ
Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực
sông Hồng Hà là đường thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung
Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào
nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là
muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng
chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để
chống Pháp, đã, thay vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống
ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra có nhiệm
vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa
dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy
đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới
quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc [4], cũng vì lý do trên.
Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm
lăng là một mối đe dọa thường xuyên (tr. 166).
Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung
Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.
Sùng Bái Chủ Nghĩa
Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng
Trong khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản
như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh
với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của
đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân
lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước. Chính vì sự thiếu sáng suốt của nhà
cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị chia cắt làm 2 miền vào năm 1954,
mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng đất nước và củng cố độc lập để
chống ngoại xâm.
Ông Nhu đã luận giải nan đề đó như sau:
Nhưng chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết
với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh trong công
cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và
trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí
của lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ
thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân
tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay thế các giá trị
tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di
sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn trên, là một
bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản
bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay
thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang,
để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát
triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không còn
hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng,
ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh
đấu vẫn là mục đích dân tộc.
Nhiều nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế
quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô.
Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản vì lý do trên (tr. 201).
Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào
chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện
trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là
những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ.
Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo
miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung
Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục
đích phát triển đã đạt.
Như thế thì, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành
một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, thì các nhà lãnh
đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta ra được ngoài vòng chi phối trực
tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc.
Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây
phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường
Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây
phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được..
Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền
Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính
chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung
Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh
chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và
Tây phương chi phối.
Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ
Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ
thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc.
Trong thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc
gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của
Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy
nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn,
đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đã
bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là thời kỳ mà
những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết quả nhất.
Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận
Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ.
Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến
trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương.
Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để
phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân.
Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai
họa.
Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta,
sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của
Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng
ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc,
đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho
quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.
Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục
đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo
Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong
mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga (tr. 202 -204).
Nhưng Hà Nội còn phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn
nữa, khi quyết định dụng võ lưc để thôn tính miền Nam, đã dẫn tới việc trực
tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đã khánh tận và kiệt quệ trong
cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát và
hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động gần như
van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm 1996, ai còn
chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là hoàn toàn vô lý và
xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Trung
Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không còn hiện diện ở miền Nam, để ngăn
chặn sự bành trướng của Trung Cộng.
Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam , hiểm họa xâm lăng
của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm:
Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo
hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam
tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống
trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân
tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.
Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi
phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành
động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển
của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.
Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối
với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép,
và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa
chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn
tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.
Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa
là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một
bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức
nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý
định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến
tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga
Sô.
Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại
trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó,
tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và
độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu
dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212)
Chính Sách Ngoại Giao
Có lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa
Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên
chúng ta đã không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật
Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã
kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày
xưa qua những dòng dưới đây:
Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong
suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các
nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào
cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.
Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá
không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại
giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước
thực tế.
Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang
giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa
chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc
quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm
lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng
gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân
tộc đã thực hiện được. Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có
thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa
trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ
không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được:
chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng
ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và
không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng
ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào
mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa
và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của
chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên,
được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn.
Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè
nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của
chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con
đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam .
Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo
Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc
ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là
vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí
tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành
động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa.
Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn.
Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã
lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam .
Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục
đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với
Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động
ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.
Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc
Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên
đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách
ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ
những sự thất bại nặng hơn nhiều.
Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ
theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho
chúng ta.
Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự,
không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ
lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí
sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.
Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị
ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy
lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai
mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị
chúng ta trong hơn tám mươi năm.
Vì vậy cho nên, chốngngoại xâm là một yếu tố quan
trọng trong chính trị của Việt Nam . Chính trị cổ truyền, của các triều đại
Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự
xâm lăng của Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về
ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng
ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ
để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã
đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng
ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều
thế hệ.
Chính sách chống ngoại xâm.
Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên
tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng
ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa,
nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?
Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại
xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt
Nam . So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam , và như thế, đương đầu phải là
mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều
cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ
được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc,
đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần
được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương
xâm chiếm nước ta.
Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được
chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính
cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận
chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà
Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới
hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng
rất là giới hạn.
Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc
chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng
ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu
thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.
Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và
hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do
của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một
chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh
đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não
của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc
xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng
chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí
quật cường của cả một dân tộc.
Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người
lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng
thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp
giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này
còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia
càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh
đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục
đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.
Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý
luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.
Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước
nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.
Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự
và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện
hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân,
phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho
vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể
chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại
xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt
tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi
người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và
dễ sử dụng như một khí cụ.
Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là
giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho
sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những
lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.
Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài
chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người,
thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ
ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán
ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như
là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa
nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc
sống tự do mới chống được ngoại xâm.
Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự
của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu
trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi
dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia
và dân tộc trong nhân dân.
Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ
nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến
thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và
độc lập của toàn dân.
Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra
trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam . Vì những lý do trình bày trên
đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự
lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết
lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của
chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc.
Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể
ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính
thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái
độ rất rõ rệt.
Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm
lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây:
Biện pháp ngoại giao.
Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo,
biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên
minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…vì ngày nay theo khuynh
hướng toàn cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên
thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng còn đối với Trung Cộng, hơn
là 30 hay 40 chục năm trước đây.
Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường
quốc không còn gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung
Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang
vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không
những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái Bình Dương mà còn là một
hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đã đề
cập đến vấn đề này,
Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng
Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng
Krutchev. « Nếu các ông tiếp tục viện trợ
cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và
Âu Châu». (Tr. 157)
Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã
cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để ký Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng,
Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa
Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ, phải chăng là thái độ nước đến
chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng
ta thử nghe ông Nhu biện giải:
Sau khi Trung Hoa bị tấn công, thì lúc bấy giờ phản
ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự
chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu
xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu
xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn nữa, quan
niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lý thuộc quốc’ [đối với
Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181).
Lẽ ra, các nhà lãnh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải
khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, thì ít ra cũng phải bí mật, vận động
giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là
các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các
quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rõ ràng nhất hiện
nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Duong9 và Mã
Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận
gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc
gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận
động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn
chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ
này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai
hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm
họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số… Việt Nam vận động
đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng
là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi
nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức
công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của
toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu
xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa
vấn đề này ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice
at The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết của tòa án này
cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm
theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới
Chúng ta còn nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình
Diệm, Nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận dộng các
quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và
Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị
dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam,
trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn, để khỏi gây nên những ảnh hưởng
tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông
Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đã phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp
Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này
ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt
Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận
là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng
túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy
tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đã xen vào nội bộ
của Việt Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng
12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái
đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc trình này ra thảo
luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng ý làm điều đó như
một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a
personal favor to Lodge), vì trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp
Quốc, Lodge là bạn của ông.[7]
Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa
Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu
chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến
vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để tìm hậu thuẩn của thế
giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ?
Nhưng thực tế, chúng ta rất đau lòng, khi thấy, các
nhà lãnh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đã đánh mất rất nhiều cơ hội
lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là
cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua
chúa Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đã trở nên tự tôn và
thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng
Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh, đã trở nên mù quáng, xem
mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại
giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ
cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một
chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn
chính trị gian trá và xão quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu
diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về lịch sử Việt Nam
Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu
diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đã vi
pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu
khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam . Đến năm 1973, một lần nữa, họ đã lừa
phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc.
Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris , họ long trọng cam kết để nhân dân
Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình. Ngay sau đó, khi người
Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa
sỗ chinh phủ Sài Gòn…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một
lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai còn có thể tin tưởng
vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào
tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị đuôi mù bởi lý thuyết
Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và
thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo
đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. Còn về phương diên quốc tế, vì
thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã liên kết với
Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài
hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân
loại. Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918,
Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất ,vì số bom đạn được
sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2.
Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là
lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam .
Đối với những nhà lãnh đạo có một não trạng bệnh hoạn
như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại
giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm tìm nhũng
đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước,
nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung
Cộng
Biện Pháp Quân Sự
Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000
người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á
hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ còn có tinh thần để hy
sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến
những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lãnh tụ của họ
tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đình và phe nhóm, còn
tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh bộ đội Cộng Sản, bị bóc
lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt
Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất
nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lãnh
đạo Hà Nội có còn ý chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại
xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận của Carl.
Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam , tại Học Viện Quốc Phòng Hoàng
Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở nên quá giàu
có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ hơn.. cho nên
việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít
lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là vấn đề quan trọng với họ nữa !
Biện Pháp Chính Trị
Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ
cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện giải vấn đề này như sau:
Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và
hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do
của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một
chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh
đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.
Và sau cùng ông Nhu đã đi đến kết luận, muốn thắng
hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà
Nội hiện nay, không thể nào thành công được.
Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới
đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lãnh vực tin
học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng
Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy
lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu
nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà lãnh đạo
của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lãnh đạo, độc tài
toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các
giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh
nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không còn ai có thể chống đối
lại họ được.
Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều
thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không còn cơ may để thay đổi thành phần
lãnh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thì vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn
đề thời gian.
Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
https://freedom-vaca.org/vaca-blog-tieng-viet-nam/
https://freedom-vaca.org/vaca-main-blog-english-articles/