Nhân trường hợp
Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt:
Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt:
nghĩ về nội tình Giáo hội Việt Nam
Vinh Mỹ
Vừa
qua một nhóm người công giáo Việt Nam đã đệ trình Đức Thánh Cha Phanxico thỉnh
nguyện thư xin cứu xét trường hợp Đức Tổng Giám Mục Ngô Quang Kiệt đã bị bức
bách phải xin từ chức Tổng Giám Mục Hanoi vì «lý do sức khỏe»
đến nay đã gần 7 năm. Ngài hiện đang ở trong một nhà dòng khổ tu nơi xa vắng, như
một ngọn đèn bị bỏ dưới bục, Thỉnh nguyện thư xin Đức Thánh Cha cho đặt ngọn
đèn này lại trên giá nến bằng cách giao cho Ngài một trọng trách trong Giáo hội
để Ngài được phục vụ dân Chúa theo đúng khả năng của Ngài.
Tuy
nhiên, trường hợp Đức Cha Kiệt chỉ là cái phần nổi của một tảng băng lớn trong
đời sống hiện tại của Giáo hội Việt Nam. Đường khổ nạn của Đức Cha Kiệt không
phải chỉ mới bắt đầu khi ngài phải từ chức, mà đã xảy ra trước đó 2 năm, khi
ngài nhận được lá thư ngày 30 tháng 01 năm 2008 của Đức Hồng Y Bertone ra lệnh
cho Ngài phải đình chỉ ngay lập tức những buổi cầu nguyện tập thể, và phải rút
ngay Thánh giá và tượng thánh ra khỏi tòa khâm sứ Tòa thánh, nơi mà chính phủ cộng
sản muốn chiếm đoạt và Đức Cha Kiệt và giáo dân nhất định bảo vệ.
Như
thế, Đức Cha Bertone đã bắt buộc Đức Cha Kiệt phải chấm dứt một cuộc đối kháng bất
bạo động, chỉ bằng lời cầu nguyện, khi nhà cầm quyền cộng sản vi phạm công lý
và các quyền con người của con cái Chúa.
Việc
can thiệp này của Đức Cha Bertone trực tiếp vào vấn đề nội bộ của một Giáo hội
địa phương là một điều tối kỵ và tệ hại mà trước đây Giáo hội Balan, đặc biệt
là Đức Hồng y Giáo chủ Wyszynski và Tổng Giám Mục Wojtyla (sau là Giáo Hoàng
Gioan Phaolo II) đã một thời cực lực phản đối. Các ngài đã «bắn tin cho
Tòa thánh hiểu rằng không có chuyện chấp thuận dù trong ý tưởng, sự có mặt ở
Balan một đại diên thường trực của Tòa Thánh» (1).
Và
Tổng Giám Mục Wyszynski trong Đại Hội đồng Giám mục năm 1978 đã lặp lại những lời
khuyến cáo về cái gọi là đối thoại với cộng sản và vai trò thực sự của Ban Tôn
Giáo chính phủ, cơ quan được thiết lập trong các nước cộng sản Đông Âu để tìm hết
cách tru diệt các tôn giáo. Ngài tuyên bố rõ ràng: «Tòa Thánh không được thảo luận với họ, nhất là không được qua mặt hàng
giám mục địa phương.». Mgr Tomasek, giáo chủ Tchèque cũng đồng quan điểm và
xin «“ngưng ngay” chính sách can thiệp của Vatican».
Rõ
ràng là Đức Cha Bertone của Tòa Thánh đã coi khinh đấng bản quyền Giáo hội địa
phương, phủ nhận quyền lãnh đạo và thực thi nhiệm vụ của Ngài, làm mất uy thế của
Ngài trước giáo dân, tự tiện hiến dâng cho cộng sản cái mà Đức Cha Kiệt đã từ
chối nhân danh công lý và vì lợi ích Giáo hội.
Thứ
đến, Đức Cha Bertone đã vi phạm chỉ thị của Đức Hồng y Ottaviani, chưởng lý Thánh
bộ Giáo lý Đức tin của Giáo triều La mã. Theo chỉ thị đó thì nhân viên ngoại
giao Vatican «không được làm suy giảm hay làm chán nản khí thế phản
kháng của người công giáo trong các nước cộng sản». (2)
Tuy
nhiên đó không phải là một lầm lỗi của một cá nhân Đức Cha Bertone! Cũng không
phải là một trường hợp riêng lẻ chỉ xảy ra một lần ở Việt Nam; nhưng đó là hành động thường xuyên của Vatican kể từ
đầu thập niên sáu mươi khi Vatican áp dụng chính sách ngoai giao Ostpolitik, chủ
trương thỏa hiệp với các chế độ cộng sản. Chinh sách đó đã gây
nên không biết bao nhiêu là đau khổ cho con cái Chúa sống dưới chế độ độc tài cộng
sản trị, chỉ vì họ muốn chống lại sự áp bức bất công của chế độ.
Đức
Hồng y Alois Stepinac, Giáo chủ Yougoslavie, chứng nhân và nạn nhân của chính
sách đó đã phải kêu lên: «cộng sản không là gì khác mà chính là «hình ảnh sống
động của hỏa ngục, một “mendacium incarnatum” (hiện thân của dối trá); với nó mọi thỏa hiệp hoặc cộng
tác bất kỳ dưới hình thức nào đều bất khả thi, xét theo quan điểm công giáo»
(thư đề 3 tháng 10 năm 1956). Và lịch sử chứng minh ngài đã nói đúng.
Trường
hợp Đức Cha Kiệt cũng không khác vói trường hợp Đức Tổng Giám Mục Mindszenty Hồng
y Giáo Chủ Hung gia Lợi trước đây. Ngài bị trục xuất khỏi Budapest năm 1971 do
sự dàn dựng của Vatican với chính phủ Hung mặc dầu Ngài nhất mực kháng cự.
Hai năm sau, Ngài lại bị Đức Thánh Cha Phaolo VI cách chức Tổng Giám Mục Esztergom
(kèm chức Giáo chủ), để có thể bổ nhiệm Laszlo Lekaï, một Giám mục thân cọng
lên thay, từ đó hàng Giáo phẩm Hung hoàn toàn chịu tuyên thệ trung thành với
chính phủ cộng sản.
Tổng
Giám Mục Mindszenty bị cách chức vì suốt 10 năm trời Vatican đã làm hết cách để
xin ngài tự nguyện làm đơn xin từ chức (vì lý do sức khỏe?!) nhưng Ngài luôn
luôn từ chối. Từ năm 1963 Vatican đã cử Đức Hồng y König Tổng Giám Mục Vienne rồi
Tổng Giám Mục Casaroli đến Budapest nhiều lần để khuyên dụ mà không được. Ngài
giải thích rằng Ngài không thể vâng theo Đức Giáo Hoàng vì: «chức Giáo chủ
không những làm Ngài trở thành thủ lãnh một Giáo hội bị áp bức mà còn làm Ngài
thành một một biểu tượng quốc gia, một chiến hào cho sự phản kháng và hy vọng của
dân tộc Hung». Trong hồi ký, Đức Hồng y trách cứ vị
ngoại giao Vatican «đã
không nghe tiếng nói của Giáo hội Hung chính thống bị chính quyền bịt miệng, ít
chú trọng đến số phận của giáo dân». Ngài còn nói: «Ngoại giao Vatican không hiểu gì thực tế cứ
để cho cộng sản lôi kéo vào những cuộc thương thảo có lợi cho chúng, và chỉ
mang lại nhiều khó khăn thêm cho người công giáo Hung…»
Ngài còn nói với Tổng Giám Mục Casaroli trong buổi
tiếp kiến tháng 4 năm 1964: «Nếu
thiên hạ không làm con lừa thì bolchevich đã chết tiệt từ lâu… ». (3)
Đức
Thánh Cha Phaolo VI đã xử sự như thế - theo như Ngài nói – «không phải
vì không biết, hoặc bất chấp những gì xảy ra cho Giáo hội sau bức màn sắt, nhưng
vì thấm nhuần đức nhẫn nhục Công giáo và để tránh một tai nạn khủng khiếp hơn».
Ngài thật sự khiếp sợ như thế vì Ngài đinh ninh rằng, các thể chế cộng sản tàn
ác sẽ thống trị bất tận (!) và phải tìm cho Giáo hội không phải một cách sống «modus vivendi», mà một lối
để khỏi chết «modus non
moriendi» như Đức Hồng Y Villot đã nhận xét. Chính vì thế mà Ngài đã truyền
chức Giám mục cho những người do cộng sản đề cử, và bỏ rơi những chủ chăn chân
chính bị cộng sản tru diệt.
Hành
động như thế, Vatican đã trúng kế cộng sản vì chính sách của các nước đó là «thành lập một
Ủy ban tôn giáo quốc doanh, qui tụ những người công giáo trung thành với chế độ
cộng sản; tiếp theo là thiết lập một giáo hội càng ngày càng xa rời rồi dần đi
đến ly khai với Roma; giai đoạn cuối cùng là từng bước một dùng thủ đoạn hủy diệt
đời sống tôn giáo, trước hết là lo việc thành lập một đội ngũ giám mục quốc
doanh do việc thủ tiêu những giám mục trung thành với giáo hội và thay vào đó bằng
những giám mục do chế độ lựa chọn và đề cử, thứ đến biến lễ nghi công giáo thành
thứ nghi lễ chỉ có hình thức hoặc biến thành lễ hội trần tục».
May
cho Giáo hội, tiến trình đó đã được Giáo Hoàng Gioan Phaolo II chận lại, hay
đúng hơn là chuyển hướng, ngài «tâm niệm rằng Ospolitik dưới thời hai vị Giáo Hoàng
tiền nhiệm là một sai lầm». (4)
Balan
và các nước Đông Âu đã đứng lên diệt trừ cộng sản và thiết lập lại các chế độ tự
do dân chủ, bình thường hóa quan hệ với Vatican, (thứ quan hệ mà các nước cộng
sản đã lợi dụng để nhử Vatican bỏ mồi chạy theo bắt bóng, hy sinh cả những giá
trị cao quí nhất của Giáo hội đó là giáo lý và truyền thống), không để thần quyền
(Giáo hội) bị thế quyền (nhà nước) chi phối khi họ ngụy biện nói là «để cứu các
linh hồn, chúng tôi có đủ can đảm để thương thảo cả với ma quỉ!».
đó chỉ là cách nói lộng ngôn, trái hẳn với giáo lý và Phúc âm của Chúa. (5)
Bức
tường Bá Linh đã bị giật sập, chế độ cộng sản đã bị đào thải ở Âu châu, nhưng
nó còn ngự trị trên ba bốn nước trong đó không may, và khốn nạn thay có nước Việt
Nam thân yêu của chúng ta. Và như chúng ta đã thấy, Ostpolitik vẫn tiếp tục được Đức Cha Bertone và
Vatican triệt để áp dụng như không có gì đã xảy ra! Vatican vẫn
chạy theo ve vãn chế độ cộng sản làm khổ cho dân công giáo việt nam. Nếu chỉ là
việc tiếp đón niềm nở ở Roma những lãnh tụ cộng sản Việt nam thì là việc nhỏ, chỉ
làm những giáo dân chứng kiến phải buồn lòng. Nhưng khi Vatican thỏa thuận để cộng
sản ưu tiên trong việc bổ nhiệm các Giám mục thì Vatican đã để thế quyền can
thiệp và chi phối phạm vi thần quyền của Giáo hội.
Tình
hình đã xảy ra tại Việt Nam là «Khi một địa phận trống ngôi, Tòa Thánh để cử
3 ứng cử viên và chính thể cộng sản loại bỏ những người không vừa ý họ»
(6)
Có
khi cả 3 người đều không vừa ý và bị loại cả 3 và phải chờ mãi cho đến khi có
người được cộng sản chấp thuận. Vị được cộng sản lựa chọn đó sẽ được Giáo hội tấn
phong làm đấng chăn chiên đích thực được Chúa Thánh Linh lựa chọn để điều khiển
Giáo hội theo đúng con đường của Chúa! Thật
là nghịch lý!
Tất
cả các Giám mục, Tổng Giám mục Việt nam hiện nay đều được bầu theo một qui
trình đó, kể cả Tổng Giám Mục Kiệt. Trên thực tế, Giáo hội Việt Nam đang được diều
khiển bởi hàng Giám mục được lựa chọn bởi chính thể vô thấn cộng sản, thù nghịch
vói công giáo! Như thế chúng ta mới hiểu
tại sao khi giáo dân công giáo phản kháng những tàn ác bất công và vi phạm nhân
quyền, tự do, kể cả tự do tôn giáo, thì không cần chính thể cộng sản phải lên
tiếng, giám mục tự nguyện biết phải lo đền ơn cộng sản bằng cách dùng quyền
Giáo hội ban cho để dập tắt mọi đối kháng của giáo dân, cấm cả cầu nguyện cho
những người bị áp bức, cấm than vãn, cấm cả rên khóc!
Những
Giám mục gây thiệt hại là những vị im tiếng, những vị mà Đức Giáo Hoàng
Bênêdicto gọi là chó câm, không chịu sủa khi kẻ
trộm vào nhà! Có một vài vị xông xáo tỏ ra mình bênh vực con chiên, chống lại bất
công tàn ác cộng sản, nhưng với thời gian và sau vài «vụ la ó», người ta thấy rõ đó chỉ là thứ lửa chắn, đốt lên để dập tắt
ngọn lửa đấu tranh của dân công giáo, giúp giữ an ninh trật tự cho cộng sản. Chính
quyền cộng sản nắm chặt họ băng cách cho ăn cà rốt và ăn đòn.
Trở
lại trường hơp Đức Cha Kiệt! Đức Cha Kiệt bị cộng sản đòi phải rời ghế Tổng Giám
Mục Hà nội vì chính họ đã loại ra những ứng viên sáng giá khác và nhận cho Ngài
chức vụ đó với hy vọng Ngài cũng sẽ ngoan ngoãn như những vị khác. Thế mà nay
Ngài lại xử sự chống lại những đòi hỏi của họ. Chắc họ thầm nghĩ: nếu họ không
chọn thì Ngài đâu được chức vị đó! Họ cho đó là một sự phản bội và hình phạt phải
là cân xứng: Phải cách chức Ngài! Họ
vận dụng những điệp viên nằm vùng ở Vatican (mấy Đưc ông người việt) và ở tòa đại
sứ Viet Nam ở Ý thương thảo đổi chác với Tòa thánh, và kết quả là Đức Cha Kiệt «bị» từ chức, rồi chỉ vài
tuần sau đó Vatican được chấp thuận gửi một đại diện không thường trực tới Việt
Nam.
Bình
luận hai sự kiện nầy ký giả Sandro Magister đã viết như sau trong tờ La Chiesa
Cattolica xuất bản tại Roma ngày 3/8/2010: «Cái giá phải trả cho một thỏa thuận ngoại
giao: Vatican được phép cử một đại diện tới Việt Nam nhưng buộc phải thay Tổng
Giám Mục Hà nội vì ông làm mất lòng họ».
Để
kết thúc, tôi xin trich dẫn điểm 2 của bản thỉnh nguỵện gồm 31 điểm do ông
Augustin Navratil và một nhóm giáo dân Tiệp khắc ban bố năm 1986, dưới sự bảo
trợ của Hồng y Tomasek để đòi tự do tôn giáo: «Chúng tôi đòi hỏi các giới chức nhà nước
không được can thiệp vào việc tuyển chọn các giám mục. Sự bổ nhiệm đó phải là
việc nội bộ của Giáo hội, nhà nước không được can thiệp vào» không lẽ người công giáo Việt Nam
cũng phải thỉnh nguyện như thế (mutatis mutandis) với cả Tòa Thánh!
__________
(1) Lecomte La vérité l’emportera toujours sur
le mensonge pp. 64-67;
(2) Ottaviani in: la politica del dialogo p. 83,
84) ;
(3) Philippe Chenaux. L’Eglise catholique et
le communiste en Europe p. 276
(4) Lecomte. -La vérité l’emportera toujours
sur le mensonge p. 72
(5) Leconte - p. 61
(6) «Au Vietnam cette procédure est codifiée
par un accord avec le Saint-Siège. Lorsqu’un diocèse est vacant, Rome présente
trois candidats et les autorités vietnamiennes excluent ceux qui ne leur
conviennent pas.» in: Chiesa cattolica, Roma 3/8/2010.
No comments:
Post a Comment