Ý
thức hệ: căn nguyên Việt Nam bỏ lỡ bình thường hóa với Mỹ hậu Chiến Tranh
Việt Nam
This entry was posted on Tháng Hai 6, 2025, in Thế giới ngày nay and tagged Cù Huy Hà Vũ, chiến tranh việt nam. Bookmark the permalink. Bình luận về bài viết này

Tổng thống Mỹ Jimmy Carter và Chủ tịch Công đoàn xe hơi Hoa Kỳ Leonard Woodcock, người mà ông cử dẫn đầu phái đoàn Mỹ sang Việt Nam bàn bạc đàm phán bình thường hóa quan hệ Mỹ – Việt vào tháng 3/1977. Ảnh: Wally McNamee via CORBIS/Getty Images.
Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ
I.
DẪN NHẬP
Năm 1975 là bước ngoặt lịch sử của Việt Nam khi đất nước thống
nhất và kết thúc Chiến tranh Việt Nam, một cuộc chiến tranh kéo dài hai thập
kỷ. Chiến thắng này không chỉ mang lại niềm vui giải phóng dân tộc mà còn mở ra
cơ hội hiếm có để tái thiết nền kinh tế bị tàn phá nặng nề và xây dựng vị thế
trên trường quốc tế. Với vị trí chiến lược tại Đông Nam Á và sự quan tâm đặc
biệt của cộng đồng quốc tế sau chiến tranh, Việt Nam có điều kiện thuận lợi để
hội nhập sâu rộng và nhận được sự hỗ trợ từ các cường quốc, đặc biệt là Mỹ.
Tuy nhiên, thay vì nắm bắt cơ hội để hướng tới hòa giải và phát
triển, Việt Nam đã lựa chọn tiếp tục duy trì quan hệ đối đầu với Mỹ. Quyết định
này kéo dài thời kỳ cấm vận kinh tế từ phía Mỹ và đồng minh, đẩy đất nước vào
tình trạng cô lập quốc tế, từ đó làm chậm tiến trình phục hồi kinh tế và đặt ra
nhiều thách thức trong chính sách đối ngoại suốt hai thập niên hậu chiến.
Ngay sau chiến tranh, Mỹ đã bày tỏ thiện chí hòa giải và sẵn sàng
hỗ trợ tái thiết thông qua các tín hiệu rõ ràng, đặc biệt là viện trợ kinh tế
nếu hai bên tiến tới bình thường hóa quan hệ vô điều kiện. Song, Việt Nam đã
không tận dụng được cơ hội này khi đưa ra yêu cầu bồi thường chiến tranh dưới
hình thức viện trợ tái thiết theo Hiệp định Paris – một đòi hỏi không tương
xứng với tình hình chính trị và quan điểm của Mỹ lúc bấy giờ. Hệ quả là, các
cuộc đàm phán đã rơi vào bế tắc, khiến Việt Nam lỡ mất cơ hội sớm thiết lập
quan hệ ngoại giao với Mỹ. Điều này không chỉ để lại những khó khăn về kinh tế
mà còn gây ảnh hưởng tiêu cực đến uy tín quốc tế của đất nước khi phải đối mặt
với những thách thức an ninh, điển hình là chiến tranh biên giới với Trung Quốc
năm 1979.
Lựa chọn đối đầu với Mỹ trong thời kỳ hậu chiến không chỉ là hệ
quả của những mâu thuẫn lịch sử mà còn phản ánh sâu sắc sự chi phối của ý thức
hệ xã hội chủ nghĩa trong tư duy lãnh đạo Việt Nam. Niềm tin mãnh liệt vào chủ
nghĩa xã hội – được củng cố bởi mối quan hệ phụ thuộc vào Liên Xô – đã khiến
Việt Nam không chỉ coi Mỹ là cựu thù mà còn là biểu tượng của tư tưởng tư bản
đối lập, dẫn đến thái độ dè dặt và thiếu linh hoạt trong các cuộc đàm phán hòa
giải. Quyết định này đã bỏ lỡ cơ hội hợp tác chiến lược với một siêu cường,
đồng thời làm suy yếu khả năng đối phó với các mối đe dọa, đặc biệt là từ Trung
Quốc, vốn ngày càng hiện hữu sau chiến tranh.
II
. BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ TRONG NƯỚC HẬU CHIẾN
1.
Căng thẳng Liên Xô
– Trung Quốc
Vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980, sự căng thẳng giữa
Liên Xô và Trung Quốc đã làm thay đổi cấu trúc chính trị và quan hệ quốc tế của
Đông Nam Á, ảnh hưởng trực tiếp đến Việt Nam. Cuộc chia rẽ này, không chỉ xảy
ra giữa hai cường quốc xã hội chủ nghĩa mà còn lan tỏa trong phong trào cộng
sản toàn cầu, buộc các nước như Việt Nam phải lựa chọn phe.
Sự bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc chủ yếu xuất phát từ những
khác biệt sâu sắc về lý tưởng, quyền lực và chiến lược. Sau cái chết của Mao
Trạch Đông năm 1976, Đặng Tiểu Bình đã đưa ra các chính sách cải cách và mở
cửa, tuy nhiên vẫn giữ thái độ hoài nghi đối với Liên Xô, mà Trung Quốc coi là
đối thủ chiến lược và là quốc gia có xu hướng áp đặt mô hình “độc tài” và “quân
sự hóa”. Các sự kiện như can thiệp quân sự của Liên Xô vào Tiệp Khắc năm 1968
và cuộc xung đột vũ trang trên đảo Damansky năm 1969 đã góp phần làm gia tăng
căng thẳng, qua đó ảnh hưởng đến quyền lực và ảnh hưởng khu vực.
Trong bối cảnh đó, sau ngày 30/4/1975, Việt Nam đã quyết định xem
Liên Xô là “hòn đá tảng” về chính trị, quân sự và kinh tế. Tuy nhiên, mối quan
hệ với Trung Quốc lại phức tạp hơn nhiều. Mặc dù Trung Quốc từng hỗ trợ Việt
Nam trong các cuộc chiến tranh chống Pháp và Mỹ, sau đó, mối quan hệ trở nên
căng thẳng do các tranh chấp liên quan đến cộng đồng gốc Hoa, biên giới và vấn
đề Campuchia – khi Trung Quốc lo ngại ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực Đông
Nam Á, nhất là sau khi Việt Nam lật đổ chính quyền Khmer Đỏ vào đầu năm 1979.
Bên cạnh đó, Liên Xô – dù là nguồn viện trợ chính về quân sự và
kinh tế – cũng không thể ủng hộ mọi hành động của Việt Nam do phải cân nhắc đến
mối quan hệ với Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Tranh chấp giữa
Liên Xô và Trung Quốc càng làm phức tạp vị thế của Việt Nam, buộc quốc gia này
phải lựa chọn giữa duy trì quan hệ mật thiết với Liên Xô và đối phó với sự đối
kháng từ Trung Quốc.
Tóm lại, căng thẳng giữa Liên Xô và Trung Quốc đã tạo ra một môi
trường chính trị rối ren, khiến Việt Nam phải đối mặt với một lựa chọn chiến
lược khó khăn: duy trì mối quan hệ với Liên Xô – nguồn hỗ trợ và “trụ cột” của
chính sách đối ngoại – trong khi đồng thời phải đối phó với áp lực từ Trung
Quốc, từ đó làm tăng tính bất ổn trong việc định hình vị thế quốc tế của Việt
Nam.
2.
Quan hệ Mỹ – Trung
Quốc cải thiện:
Sau năm 1975, bối cảnh chính trị toàn cầu chứng kiến sự chuyển
biến quan trọng với việc cải thiện quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc, tạo nên những
tác động chiến lược lớn đến khu vực Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Trước năm 1972, mối quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc bị chi phối bởi
sự đối đầu căng thẳng kéo dài hơn hai thập kỷ. Dưới sự lãnh đạo của Mao Trạch
Đông, Trung Quốc coi Mỹ là kẻ thù chính của chủ nghĩa cộng sản, trong khi Mỹ lo
ngại sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản trên toàn cầu. Tuy nhiên, vào thập niên
1970, cả hai bên đều nhận thức được lợi ích của việc thay đổi chiến lược trong
bối cảnh mới.
Đối với Mỹ, Chiến tranh Việt Nam đã tiêu tốn nguồn lực lớn mà
không đạt được kết quả như kỳ vọng, đồng thời Mỹ đang đối mặt với sức ép cạnh
tranh từ Liên Xô – một siêu cường mở rộng ảnh hưởng ở nhiều khu vực. Việc thiết
lập quan hệ với Trung Quốc trở thành chiến lược nhằm chia rẽ khối cộng sản và
tạo áp lực đối với Việt Nam trong các cuộc đàm phán hòa bình tại Paris.
Trung Quốc, sau cuộc xung đột biên giới năm 1969 với Liên Xô, ngày
càng cảm thấy bị cô lập khi cả Mỹ lẫn Liên Xô đều xem mình là đối thủ tiềm
năng. Trong bối cảnh đó, Trung Quốc chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với Mỹ để
cân bằng quyền lực và thúc đẩy quá trình mở cửa kinh tế, qua đó tăng cường vị
thế quốc tế của mình.
Chuyến thăm Trung Quốc của Tổng thống Richard Nixon vào tháng 2
năm 1972 đã đánh dấu bước ngoặt lịch sử trong quan hệ hai nước. Qua Tuyên bố
chung Thượng Hải, Mỹ đã công nhận nguyên tắc “một Trung Quốc” – theo đó Cộng
hòa Nhân dân Trung Hoa được coi là chính phủ hợp pháp duy nhất đại diện cho
toàn bộ Trung Quốc, bao gồm cả Đài Loan – trong khi Trung Quốc cam kết thúc đẩy
đối thoại hòa bình ở khu vực. Cam kết này của Bắc Kinh được hiểu là giảm hoặc
hạn chế viện trợ quân sự và hậu cần cho Bắc Việt Nam, từ đó làm suy yếu khả
năng tác chiến của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, bộ phận Quân đội Nhân dân
Việt Nam và gây sức ép buộc Hà Nội nhượng bộ, chấp nhận một giải pháp có lợi
cho Mỹ, như giữ lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH) thay vì để Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) thống nhất đất nước bằng quân sự.
Mối quan hệ cải thiện giữa Mỹ và Trung Quốc cũng đặt ra những
thách thức mới cho Việt Nam. Khi hai cường quốc này bắt tay cùng nhau, Việt Nam
trở nên tương đối bị cô lập về mặt chiến lược. Sự phụ thuộc vào viện trợ của
Liên Xô khiến Việt Nam phải gắn bó chặt chẽ với các cam kết về ý thức hệ, hạn
chế tính linh hoạt trong chính sách đối ngoại. Đồng thời, hợp tác ngầm giữa Mỹ
và Trung Quốc nhằm ngăn chặn sự trỗi dậy của Việt Nam trong khu vực cũng dẫn
đến những căng thẳng và xung đột, thể hiện rõ qua cuộc xâm lược của Trung Quốc
năm 1979 và các tranh chấp liên quan đến Campuchia.
Tóm lại, việc cải thiện quan hệ Mỹ – Trung Quốc sau năm 1975 đã
định hình lại môi trường chiến lược ở Đông Nam Á. Đối với Việt Nam, giai đoạn
này không chỉ đem đến những thách thức trong chính trị và kinh tế mà còn làm
thay đổi đáng kể bối cảnh quan hệ đối ngoại, đòi hỏi quốc gia này phải điều
chỉnh chiến lược để tồn tại và phát triển trong bối cảnh quốc tế ngày càng phức
tạp.
3.
Tiến hành cách mạng
chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN,
Việt Nam đã quyết định xây dựng nền kinh tế, xã hội và chính trị trên cơ sở chủ
nghĩa xã hội, coi đây là con đường duy nhất để tái thiết và phát triển đất
nước. Tại Đại hội IV năm 1976, ĐCSVN khẳng định rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa
– cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân nhằm xóa bỏ chế độ tư bản và tiến tới
chủ nghĩa cộng sản – là chiến lược toàn diện của quốc gia, trong đó Mỹ được xem
là đối tượng đấu tranh chứ không phải là đối tác hợp tác.
Để thực hiện mục tiêu này, Việt Nam đã triển khai một loạt các
chính sách chủ đạo nhằm chuyển đổi hệ thống kinh tế:
·
Quốc hữu hóa và tập trung quyền lực kinh tế: Chính quyền
đã thực hiện chính sách quốc hữu hóa doanh nghiệp tư nhân và hợp tác xã nhằm
tập trung quyền lực kinh tế vào tay Nhà nước, xóa bỏ sự phân chia giữa các
thành phần kinh tế và xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa từ trung ương.
·
Cải cách ruộng đất: Nhà nước tiến hành tập thể hóa ruộng
đất với mục tiêu chuyển đổi hình thức sở hữu, khuyến khích hình thành hợp tác
xã nông nghiệp, nhằm phát triển sản xuất tập trung và nâng cao hiệu quả nông
nghiệp.
·
Xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung: Việt Nam tập
trung kiểm soát toàn bộ hoạt động sản xuất, phân phối và tiêu dùng, ưu tiên
phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm như điện lực, khai khoáng và chế
tạo máy móc.
Tuy nhiên, các chính sách này, dù mang tính cách mạng, cũng gặp
phải nhiều khó khăn như hiệu quả sản xuất thấp, lãng phí tài nguyên, thiếu sự
đổi mới công nghệ và sự quản lý kém hiệu quả. Đồng thời, trong bối cảnh bị Mỹ
cấm vận và căng thẳng với các quốc gia phương Tây khác, Việt Nam phải phụ thuộc
vào viện trợ từ Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Khi nguồn viện
trợ này suy giảm vào giữa thập niên 1980, quốc gia này buộc phải tiến hành cải
cách kinh tế, gọi là “Đổi mới” vào năm 1986, nhằm thu hẹp mô hình kế hoạch hóa
tập trung và cho phép kinh tế tư nhân hoạt động trở lại. Sự thay đổi này đánh
dấu sự kết thúc của giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa toàn diện trong lĩnh
vực kinh tế và mở đường cho một hướng đi mới trong chính sách phát triển.
4.
Vai trò của Lê Duẩn
Lê Duẩn, trong vai trò Bí thư thứ nhất rồi Tổng Bí thư ĐCSVN, đã
định hình một chính sách đối ngoại cứng rắn trong giai đoạn 1960–1980, trong đó
Mỹ và Trung Quốc được xác định là những đối thủ cần phải đối đầu.
Sau khi Pháp rút khỏi Đông Dương vào năm 1954 sau thất bại tại
Điện Biên Phủ, Mỹ nhanh chóng thay thế, tiến hành Chiến tranh Việt Nam nhằm
ngăn chặn sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản ở Đông Nam Á theo “Thuyết Domino”.
Để thực hiện mục tiêu này, năm 1955, Mỹ thành lập Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam
Việt Nam, đưa Ngô Đình Diệm lên làm Tổng thống. Ngay sau đó, chính quyền Diệm
phát động hàng loạt chiến dịch “tố cộng”, “diệt cộng” nhằm truy tìm và tiêu
diệt những cán bộ kháng chiến hoặc có liên quan đến Việt Minh mà họ gọi là Việt
Cộng. Đến tháng 5/1957, chính quyền này ban hành luật “đặt cộng sản ngoài vòng
pháp luật”.
Trong khi đó, Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (ĐCSVN) không chủ
trương đấu tranh vũ trang, chỉ yêu cầu chính quyền Diệm thực thi Hiệp định Genève,
hiệp thương tổng tuyển cử với miền Bắc. Đường lối đấu tranh hòa bình này này
dẫn đến tổn thất nghiêm trọng cho những người cộng sản. Tổng bí thư ĐCSVN ông
Nguyễn Phú Trọng cho biết: “Trong những năm 1954 – 1959, ở miền Nam đã có 466.000
đảng viên và những người yêu nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi đày và
68.000 người bị giết.” (1)
Trước tình hình bất lợi đó, vào tháng 8/1956, Lê Duẩn, khi đó là
Bí thư Xứ ủy Nam bộ, đã hoàn thành bản Đề cương Cách mạng miền Nam,
trong đó khẳng định: “Trước chính sách khủng bố tàn bạo của kẻ thù, nhân
dân miền Nam không có con đường nào khác là phải đứng lên đập tan chính sách
độc tài của Mỹ – Diệm để tự cứu mình.” Đầu năm 1957, Bộ chính trị
Đảng giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp và một số cán bộ cao cấp soạn thảo đường lối
mới cho cách mạng miền Nam. Những người này nhận định: “Địch dùng biện pháp quân
sự đàn áp nhân dân ta, tiếp tục đấu tranh hòa bình sẽ không có kết quả, phải
đấu tranh vũ trang mới đưa phong trào cách mạng tiến lên được.” Tuy
nhiên, dưới sức ép từ Liên Xô và Trung Quốc đang theo đuổi chính sách “chung
sống hòa bình” với Mỹ, chủ trương chuyển cách mạng miền Nam sang đấu tranh vũ
trang đã không nhận được sự nhất trí cao trong Bộ chính trị.
Cuối năm 1957, Lê Duẩn được Trung ương Đảng điều ra Hà Nội và được
Hồ Chí Minh cử thay Đại tướng Võ Nguyên Giáp để tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh
đường lối mới cho cách mạng miền Nam. Tại Đại hội III Đảng Lao động Việt Nam
năm 1960, ông được bầu làm Bí thư thứ nhất.
Lê Duẩn nhận thức rõ rằng để giành chiến thắng trong cuộc chiến
nhằm thống nhất đất nước, sự hỗ trợ của Liên Xô—với tư cách siêu cường xã hội
chủ nghĩa—mang tính sống còn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1954–1964, khi Nikita
Khrushchev, người chủ trương “chung sống hòa bình” với Mỹ, giữ cương vị lãnh
đạo Liên Xô, nước này chỉ đóng vai trò “quan sát viên.” Phải đến khi Leonid
Brezhnev lên thay vào năm 1964, Liên Xô mới trở thành
nguồn viện trợ quân sự chủ chốt cho Việt Nam (2).
Từ năm 1965 đến 1974, Việt Nam đã nhận được từ Liên Xô:
·
xe tăng, 1.708 xe bọc thép, 7.000 khẩu pháo và súng cối,
hơn 5.000 khẩu pháo cao xạ và bệ phóng, 158 tổ hợp tên lửa, hơn 700 máy bay
chiến đấu, 120 máy bay trực thăng, 100 tàu chiến.
·
117 cơ sở quốc phòng được xây dựng, bao gồm sân bay, căn
cứ hải quân, công trình phòng thủ, trường huấn luyện.
·
Quân nhân Liên Xô có mặt tại miền Bắc Việt Nam từ
11/7/1965 đến 31/12/1974 với 6.359 tướng lĩnh, sĩ quan và hơn 4.500 hạ sĩ quan,
binh sĩ làm chuyên gia quân sự và trực tiếp tham chiến.
·
Từ 1966 đến 1975, 13.500 quân nhân Việt Nam được đào tạo
tại các cơ sở quân sự của Liên Xô.
Sự hỗ trợ này không chỉ mang tính vật chất mà còn là sự hậu thuẫn
chính trị mạnh mẽ, giúp củng cố tinh thần và nâng cao vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế.
Trong khi đó, Trung Quốc—một đồng minh quan trọng trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ—đã dần trở thành kẻ thù, từ tiềm tàng đến
trực tiếp, trong những năm 1970 và 1980.
Ngay từ năm 1963, khi Mỹ đang tiến hành chiến tranh đặc biệt ở
miền Nam Việt Nam, Lê Duẩn đã xác định rằng Trung Quốc, dù cùng ý thức hệ xã
hội chủ nghĩa, vẫn có tham vọng xâm lược Việt Nam, và ông đã thể hiện quyết tâm
chống lại điều đó. Nhà lãnh đạo ĐCSVN không ngần ngại nói thẳng với Mao Trạch
Đông, như được ông kể lại trong một bài phát biểu năm
1979 (3):
“Năm 1963, khi Khrushchev phạm sai lầm, ngay lập tức
[Trung Quốc] ban hành một tuyên bố 25 điểm và mời đảng chúng ta đến cho ý kiến.
…Trước
khi chúng tôi ra về, Mao gặp anh Trường Chinh và tôi. Mao ngồi xuống trò chuyện
với chúng tôi và cuối cùng ông ta tuyên bố: “Các đồng chí, tôi muốn nói cho các
đồng chí biết điều này. Tôi sẽ là chủ tịch của 500 triệu nông dân đang thiếu
đất, và tôi sẽ mang một đạo quân tiến xuống khu vực Đông Nam Á.“Đặng Tiểu Bình
cũng ngồi ở đó, nói thêm: “Chủ yếu là vì nông dân nghèo, trong tình cảnh khó
khăn cùng cực!”
Khi
chúng tôi ra ngoài, tôi nói với anh Trường Chinh: “Đó anh thấy đó, âm mưu chiếm
nước ta và Đông Nam Á. Bây giờ đã rõ rồi.“ Họ dám tuyên bố điều đó như thế. Họ
nghĩ chúng ta không hiểu. Đúng là không lúc nào họ không nghĩ đến đánh Việt Nam!
…
Đối với Việt Nam, họ không dám nói về việc đưa người tới theo cách này. Tuy
nhiên, ông ta (Mao) nói với tôi: “Đồng chí, có đúng là người của các đồng chí
đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta hỏi: “Có phải
cũng chính người của đồng chí đã đánh bại quân Thanh?” Tôi nói: “Đúng“. Ông ta
nói: “Và quân Minh nữa, phải không?” Tôi nói: “Đúng, và cả các ông nữa. Tôi
đánh các ông luôn. Các ông có biết điều đó không?
Tôi
đã nói với Mao Trạch Đông như thế. Ông ta nói: “Có, có!” Ông ta muốn chiếm Lào,
cả Thái Lan, cũng như muốn chiếm tất cả các nước Đông Nam Á. Đưa người dân đến
sống ở đó. Quan điểm đó thật là phức tạp.
… Phải
nói rằng, người kiên quyết nhất là người có tinh thần Đại Hán và là người muốn
chiếm Đông Nam Á, đó chính là Mao Trạch Đông. Tất cả các chính sách (của Trung
Quốc) đều nằm trong tay ông ta.”
Quan điểm tiêu cực của Lê Duẩn về Trung Quốc cuối cùng đã được thể
chế hóa trong Hiến pháp Việt Nam
năm 1980 (4), khi cụm từ “bọn bá quyền Trung Quốc xâm
lược” được chính thức đưa vào văn bản pháp lý cao nhất của
đất nước. Điều này phản ánh hệ quả của cuộc chiến tranh biên giới do Trung Quốc
phát động vào năm 1979. Việc gọi Trung Quốc là “bá quyền” không
chỉ thể hiện lập trường đối kháng mà còn loại bỏ nước này khỏi phạm trù “xã hội
chủ nghĩa”, khi Việt Nam đồng nhất việc “chống
chủ nghĩa bành trướng, bá quyền” với “nghĩa
vụ quốc tế cao cả” của mình.
III.
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM THỜI HẬU CHIẾN
1.
Say men chiến thắng
và ý thức hệ xã hội chủ nghĩa.
Trong suốt thời kỳ Chiến tranh Lạnh và kháng chiến chống Mỹ, Việt
Nam đã xây dựng chính sách đối ngoại và phát triển dựa trên niềm tin mãnh liệt
vào chiến thắng của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết Đại hội IV của ĐCSVN
(1976) khẳng định:
“Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc
và là một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính chất thời đại sâu
sắc…Thắng lợi ấy làm thất bại cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới quy mô lớn
nhất và dài ngày nhất từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, làm đảo lộn chiến
lược toàn cầu của tên đế quốc đầu sỏ, đẩy Mỹ vào tình thế khó khăn chưa từng
thấy, thu hẹp và làm suy yếu hơn nữa hệ thống đế quốc chủ nghĩa, củng cố tiền
đồn của chủ nghĩa xã hội ở Đông Nam Á, mở rộng và tăng cường hệ thống xã hội
chủ nghĩa, tăng thêm sức mạnh và thế tiến công của các lực lượng cách mạng trên
thế giới… Cuộc sống chứng tỏ rằng hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới ngày càng
phát huy tác dụng là nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội loài người. Đó
là thành trì kiên cố của cách mạng vô sản thế giới, là chỗ dựa vững chắc của
phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân các nước… Thất bại hoàn toàn của Mỹ
trong chiến tranh xâm lược Việt Nam đánh dấu một bước ngoặt đi xuống của đế
quốc Mỹ. Suy yếu nhiều về quân sự, chính trị và kinh tế, chúng đã kéo cả thế
giới tư bản chủ nghĩa lún sâu vào tổng khủng hoảng toàn diện, không phương cứu
chữa.” (5)
Nghị quyết phản ánh tinh thần lạc quan và tự hào dân tộc trong
thời kỳ hậu chiến, nhưng đồng thời cũng thể hiện một số đánh giá lạc quan và
không thực tế về khả năng và vị thế của Việt Nam sau chiến thắng.
Đầu tiên, Nghị quyết thể hiện sự tin tưởng quá mức vào sức mạnh ý
thức hệ xã hội chủ nghĩa, khi khẳng định rằng chủ nghĩa xã hội là “tương lai
tất yếu của nhân loại.” Chiến thắng năm 1975 được coi là bằng chứng không thể
chối cãi về sự ưu việt của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhưng điều này bỏ qua
những vấn đề nội tại của hệ thống này, cũng như khủng hoảng kinh tế và chính
trị mà các quốc gia xã hội chủ nghĩa đang đối mặt vào thời điểm đó.
Tiếp theo, văn kiện này xác định Việt Nam là “tiền đồn của chủ
nghĩa xã hội ở Đông Nam Á”, gánh vác trách nhiệm dẫn dắt phong trào cách mạng
trong khu vực. Đây là một khẳng định tuyên truyền mạnh mẽ nhưng vượt quá khả
năng thực tế của một quốc gia vừa trải qua chiến tranh tàn khốc. Việt Nam vào
thời điểm đó thiếu các yếu tố cần thiết như nền tảng kinh tế vững mạnh và tiềm
lực quân sự hay chính trị để thực hiện vai trò “tiền đồn” này.
Ngoài ra, Nghị quyết còn hạ thấp đối thủ, đặc biệt là Mỹ, khi mô
tả thất bại của Mỹ tại Việt Nam như “một bước ngoặt đi xuống”, “kéo cả thế giới
tư bản chủ nghĩa lún sâu vào tổng khủng hoảng toàn diện, không phương cứu
chữa.” Quan điểm này bỏ qua khả năng phục hồi kinh tế nhanh chóng của Mỹ sau
chiến tranh và sự chuyển dịch chiến lược toàn cầu mà Mỹ thực hiện. Mặc dù Việt
Nam chiến thắng trong chiến tranh, điều này không có nghĩa là Mỹ sẽ suy yếu mãi
mãi. Tư duy này của ĐCSVN thể hiện kỳ vọng vào một tương lai dễ dàng mà không
có sự chuẩn bị đầy đủ đối với những biến động toàn cầu mà Việt Nam sẽ phải đối
mặt. Việc phê phán Mỹ trong Nghị quyết cũng phản ánh sự không nhận thức rõ ràng
về tầm quan trọng của việc duy trì quan hệ quốc tế và sự hợp tác với các nước
tư bản phát triển để phát triển đất nước sau chiến tranh.
Nguyên nhân của những khẳng định cường điệu hóa nói trên là “say
men chiến thắng”.
Say men chiến thắng là một hiện tượng khá phổ biến trong lịch sử,
đặc biệt sau những chiến thắng lớn, khi sự thành công có xu hướng được lý tưởng
hóa và dẫn đến sự tự mãn và phấn khích quá mức của các lãnh đạo hoặc cả cộng
đồng, làm suy yếu khả năng đánh giá đúng đắn về thực tế và những thử thách thực
tế phía trước. Một trong những biểu hiện rõ rệt của tâm lý này là sự tập trung
vào quá khứ vinh quang. Khi một quốc gia hoặc hệ thống chính trị đạt được chiến
thắng lớn, đặc biệt là trong bối cảnh chiến tranh hoặc xung đột quân sự, họ dễ
dàng bị cuốn vào hào quang của thành công, đánh giá quá cao những thành tựu đã
đạt được và lờ đi những khó khăn thực tế mà họ sẽ phải đối mặt.
Sự tự mãn và đánh giá sai lầm là một hậu quả rõ rệt của tâm lý
“say men chiến thắng.” Khi chiến thắng được thần thánh hóa, các nhà lãnh đạo có
xu hướng đánh giá quá cao khả năng của mình và hệ thống chính trị. Họ trở nên
chủ quan trong tư duy và hành động, không nhận ra rằng đối thủ có thể phục hồi
và có thể có những khả năng tiềm tàng mà họ đã đánh giá thấp.
Sự cứng nhắc trong chiến lược là một hệ quả quan trọng khác của
tâm lý này. Khi một quốc gia say men chiến thắng, họ có xu hướng duy trì những
cách tiếp cận giáo điều hoặc cứng nhắc, mà không điều chỉnh theo thực tế. Việc
gắn chiến thắng với một hệ tư tưởng mạnh mẽ càng làm gia tăng sự bảo thủ trong
các quyết sách. Các lãnh đạo có thể từ chối những ý kiến phản biện hoặc sự tư
vấn từ các chuyên gia, vì họ tin tưởng quá mức vào “sự bất khả chiến bại” của
bản thân. Hệ quả là, quốc gia này có thể rơi vào tình trạng trì trệ, không phát
triển đúng hướng và bỏ lỡ các cơ hội chiến lược.
Một trong những tác động tiêu cực của tâm lý “say men chiến thắng”
là sự trì trệ và xa rời thực tế. Tâm lý tự mãn khiến các lãnh đạo và chính phủ
không nhận ra sự cần thiết phải cải cách và thay đổi, và thay vào đó tập trung
vào việc củng cố quyền lực và duy trì “hào quang chiến thắng”. Điều này không
chỉ dẫn đến sự trì trệ trong phát triển kinh tế và xã hội, mà còn làm suy giảm
niềm tin của người dân vào chính phủ và tổ chức lãnh đạo. Về mặt đối ngoại, tâm
lý này có thể dẫn đến những hành động thiếu cân nhắc, gây căng thẳng trong quan
hệ quốc tế và làm giảm khả năng hợp tác, từ đó bỏ lỡ các cơ hội hòa bình và
phát triển.
Tóm lại, say men chiến thắng là một trạng thái tâm lý nguy hiểm,
dẫn đến sự tự mãn, đánh giá sai lầm và thiếu linh hoạt trong chiến lược. Khi
một quốc gia hoặc tổ chức trở nên quá tập trung vào chiến thắng trong quá khứ
và quá tự tin vào khả năng của mình, họ có thể bị cuốn vào những quyết định sai
lầm và bỏ qua các thách thức thực tế, từ đó tạo ra những hậu quả tiêu cực cho
sự phát triển dài hạn của quốc gia đó.
Lịch sử thế giới đã chứng kiến nhiều trường hợp say men chiến
thắng dẫn đến những sai lầm chiến lược không thể khắc phục:
·
Đế chế La Mã: Sau khi đánh bại Carthage trong các cuộc
chiến Punic, La Mã trở nên tự mãn, mở rộng lãnh thổ quá mức mà không quản lý
hiệu quả, dẫn đến sự suy tàn sau đó.
·
Napoléon Bonaparte: Thành công liên tiếp trên chiến
trường khiến Hoàng đế Pháp Napoléon tin vào sự bất khả chiến bại, dẫn đến quyết
định sai lầm khi xâm lược Nga năm 1812, khiến đế chế của ông sụp đổ.
·
Đế quốc Nhật Bản: Sau những thắng lợi đầu tiên trong Thế
chiến II, Nhật Bản đánh giá thấp sức mạnh của Mỹ và đồng minh, dẫn đến thất bại
thảm hại sau đó.
Say men chiến thắng gắn liền với tư duy ý thức hệ đã ảnh hưởng sâu
sắc đến chính sách đối ngoại của Việt Nam thời hậu chiến, thể hiện ở sự tập
trung vào việc duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các quốc gia xã hội chủ nghĩa,
đặc biệt là Liên Xô, và duy trì đối kháng với Mỹ.
2.
Sự thù địch của
Trung Quốc và chính sách “Nhất biên đảo”
Chính sách “Nhất biên đảo” – ngả hẳn về Liên Xô – được coi là “hòn
đá tảng” trong chính sách ngoại giao của Việt Nam trong giai đoạn hậu chiến,
phản ánh sự kết hợp chặt chẽ của các yếu tố chính trị, ý thức hệ, quân sự và
kinh tế. Đối với Lê Duẩn và các cộng sự của ông trong Bộ chính trị ĐCSVN, đây
là một bước đi chiến lược có tính quyết định, không chỉ nhằm bảo vệ an ninh
quốc gia mà còn để củng cố nền tảng xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam theo đuổi.
Về
mặt chính trị và ý thức hệ, sự đồng thuận giữa Việt
Nam và Liên Xô về chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa, còn gọi là chủ nghĩa quốc
tế, tạo nên một mối quan hệ đặc biệt.
Chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa là một nguyên tắc tư tưởng và
chiến lược chính trị trong phong trào cộng sản và xã hội chủ nghĩa, nhấn mạnh sự
đoàn kết và hợp tác giữa các quốc gia có chung hệ tư tưởng Mác – Lênin. Xuất
phát từ quan điểm rằng giai cấp công nhân trên toàn thế giới có lợi ích chung,
chủ nghĩa này kêu gọi sự liên kết của giai cấp vô sản nhằm đấu tranh chống lại
chủ nghĩa tư bản và đế quốc. Theo đó, giai cấp công nhân không có biên giới
quốc gia mà là một lực lượng toàn cầu cần hợp tác để giành chính quyền và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Karl Marx và Friedrich Engels trong Tuyên
ngôn Cộng sản (1848) đã khẳng định: “Vô sản toàn thế giới,
đoàn kết lại!”
Theo lý thuyết này, các quốc gia xã hội chủ nghĩa có trách nhiệm
hỗ trợ lẫn nhau về chính trị, kinh tế và quân sự để bảo vệ và củng cố chế độ.
Trên thực tế, Liên Xô đã viện trợ mạnh mẽ cho Việt Nam, Cuba và Triều Tiên nhằm
duy trì và mở rộng ảnh hưởng của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Chủ nghĩa quốc tế
xã hội chủ nghĩa cũng bác bỏ tư tưởng dân tộc vị kỷ, nhấn mạnh lợi ích chung
của phong trào vô sản toàn cầu hơn là lợi ích quốc gia riêng lẻ.
Chủ nghĩa này cũng đồng nhất với lập trường chống chủ nghĩa đế
quốc, kẻ thù chung của giai cấp vô sản toàn cầu. Với tư cách là cường quốc hàng
đầu của phe tư bản, Mỹ bị coi là “đế quốc đầu sỏ”, không chỉ về kinh tế mà còn
về chính trị và quân sự, đi ngược lại mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi quốc tế. Mỹ bị cáo buộc can thiệp, lật đổ các chính phủ xã hội chủ
nghĩa và hỗ trợ các thế lực phản động chống lại các phong trào cộng sản. Vì
vậy, các quốc gia xã hội chủ nghĩa phải đoàn kết thành một mặt trận thống nhất
chống lại Mỹ và đồng minh của Mỹ. Liên Xô và Trung Quốc cho đến cuối những năm
1950 đóng vai trò lãnh đạo trong việc thiết lập một hệ thống quan hệ quốc tế
riêng biệt, tách khỏi hệ thống tài chính, kinh tế và chính trị của Mỹ.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô là nước dẫn đầu phong trào
quốc tế xã hội chủ nghĩa khi thiết lập khối quân sự Hiệp ước Warsaw và Hội đồng
Tương trợ Kinh tế (COMECON) để hỗ trợ các nước xã hội chủ nghĩa.
Về
mặt kinh tế, Việt Nam đã phải đối mặt với một cuộc
khủng hoảng sâu sắc sau năm 1975. Đất nước bị tàn phá nghiêm trọng bởi chiến
tranh, nền công nghiệp gần như bị hủy diệt, và nhu cầu về các nhu yếu phẩm cơ
bản là rất lớn. Chính trên tinh thần của chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa,
Liên Xô đã nhanh chóng đáp ứng nhu cầu này bằng cách cung cấp viện trợ tài chính,
công nghệ và hàng hóa tiêu dùng thiết yếu. Chỉ trong trong giai đoạn 1976-1980,
khối lượng viện trợ đã bằng cả 20 năm trước đó (1955- 1975) (6). Cụ thể, viện
trợ ước tính từ 700 triệu đến 1 tỷ USD trong năm 1978 và khoảng 1 tỷ USD hàng
năm cho đến giữa những năm 1980, khi Liên Xô phải đối mặt với rất nhiều khó
khăn (7). Ngoài ra, Liên Xô còn giúp Việt Nam vốn và kỹ thuật để xây dựng hàng
loạt công trình công nghiệp như nhà máy thủy điện Hoà Bình, thủy điện Trị An,
nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nhà máy xi măng Bỉm sơn. Sự hỗ trợ này đã giúp Việt
Nam bước đầu tái thiết nền kinh tế và duy trì sự ổn định xã hội.
Tuy nhiên, Trung Quốc mới là yếu tố quyết định khiến Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Lê Duẩn ngả hẳn về Liên Xô như một đồng minh mạnh mẽ và đáng
tin cậy.
Vào năm 1974, tranh thủ lúc Việt Nam Cộng hòa, chủ thể quản lý
quần đảo Hoàng Sa, đang phải căng sức chống đỡ các cuộc tấn công của Quân đội
nhân dân Việt Nam, Trung Quốc đã dùng vũ lực chiếm quần đảo này. Tiếp đó, Bắc
Kinh chỉ đạo và hỗ trợ Campuchia Dân chủ của Khmer Đỏ tấn công lãnh thổ Việt
Nam ngay sau khi đất nước thống nhất vào năm 1975.
Đến năm 1978, khi Khmer Đỏ tiến hành chiến tranh tổng lực trên
toàn tuyến biên giới và Trung Quốc ra mặt thù địch với chiến dịch “nạn kiều”
liên quan đến cộng đồng người Hoa, Việt Nam đã kí với Liên Xô Hiệp ước Hữu nghị
và Hợp tác có giá trị trong 25 năm vào ngày 03/11/1978 tại Matxcơva. Điều Sáu
Hiệp ước quy định:
“Các bên ký kết sẽ tham khảo ý kiến của nhau về tất
cả các vấn đề quốc tế lớn ảnh hưởng đến lợi ích của cả hai nước. Trong trường
hợp một trong các bên trở thành đối tượng của một cuộc tấn công hoặc đe dọa tấn
công, các bên ký kết sẽ ngay lập tức bắt đầu tham vấn lẫn nhau để loại bỏ mối
đe dọa đó và thực hiện các biện pháp hiệu quả phù hợp đảm bảo hòa bình và an
ninh cho quốc gia của hai bên.”
Với Điều này, Hiệp ước là một hiệp ước liên minh quân sự giữa hai
nước. Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô Brejnev cảnh báo Hiệp ước “sẽ
không làm vừa lòng những kẻ không thích tình hữu nghị giữa Liên Xô và Việt Nam,
những kẻ chủ trương gây tình hình căng thẳng…” (8)
Dựa trên Hiệp ước, Liên Xô đã hậu thuẫn mạnh mẽ cho Việt Nam trong
cuộc phản công Khmer Đỏ và tiến quân vào Campuchia vào tháng 1 năm 1979 và
trong cuộc chiến chống xâm lượcTrung Quốc diễn ra ngay sau đó, vào tháng 2 cùng
năm. Cuộc chiến sau sẽ chỉ kết thức 10 năm sau đó, vào tháng 10 năm 1989 (9).
Chi trong thời gian đầu của cuộc xâm lược của Trung Quốc, tháng 2
và tháng 3/1979, Liên Xô bằng đường biển đã chuyển đến Việt Nam hơn 400 xe tăng
và xe thiết giáp, xe bộ binh cơ giới, 400 khẩu pháo và súng cối, 50 tổ hợp pháo
phản lực Grad BM-21, hơn 100 khẩu pháo phòng không, 400 tổ hợp tên lửa phòng
không vác vai và hàng nghìn tên lửa, 800 súng chống tăng RPG-7, 20 máy bay tiêm
kích (10). Sự hiện diện của Hải đoàn tác chiến cơ động số 17 thuộc Hạm đội Thái
Bình Dương của siêu cường xã hội chủ nghĩa tại cảng Cam Ranh từ năm 1979 đến
năm 2002 cũng đã giúp Việt Nam tránh bị Trung Quốc tấn công từ biển.
Tuy nhiên, chính sách “Nhất biên đảo” không phải không có hậu quả.
Việc Việt Nam gắn kết đồng minh với Liên Xô khiến Mỹ hoàn toàn
thất vọng, bởi mục tiêu của Tổng thống Carter trong việc bình thường hóa quan
hệ với Hà Nội là nhằm kéo Việt Nam ra khỏi quỹ đạo của Matxcơva, qua đó ngăn
chặn sự mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô tại châu Á.
Phần lớn các quốc gia phương Tây khác như Anh, Pháp và Tây Đức, dù
không trực tiếp đối đầu với Việt Nam, nhưng cũng không ủng hộ bước đi này của
Hà Nội. Họ lo ngại rằng việc Việt Nam trở thành đồng minh quân sự của Liên Xô
sẽ làm gia tăng căng thẳng tại Đông Nam Á và có nguy cơ dẫn đến đối đầu giữa
các cường quốc. Pháp, dù có quan hệ lịch sử với Việt
Nam và duy trì tiếp xúc ngoại giao, cũng không khỏi e ngại trước ảnh hưởng ngày
càng lớn của Liên Xô tại Đông Dương.
Về phía ASEAN, đặc biệt là Thái Lan, Singapore và Indonesia, các
nước này coi việc Việt Nam liên minh quân sự với Liên Xô là một mối đe dọa lớn.
Họ lo ngại rằng Việt Nam có thể trở thành “cánh tay nối dài” của Liên Xô tại
Đông Nam Á, gây mất cân bằng chiến lược trong khu vực.
Kết quả là Mỹ, các nước phương Tây và ASEAN đã tăng cường hợp tác
với nhau cũng như với Trung Quốc nhằm đối phó với mối đe dọa từ liên minh quân
sự Việt – Xô và cô lập Việt Nam trên trường quốc tế, đặc biệt từ cuối năm 1977
khi Việt Nam phản công Khmer Đỏ và tiến quân vào Campuchia để lật đổ chính
quyền Khmer Đỏ. Mặc dù chiến dịch quân sự này của Việt Nam dẫn đến việc xóa bỏ
chế độ diệt chủng Pol Pot vào tháng 1/1979, nhưng các nước này vẫn xem đây là
một hành động xâm lược. Trong bối cảnh đó, Thái Lan đã cung cấp căn cứ địa ở
vùng biên giới cho Khmer Đỏ để tiến hành các hoạt động chống lại quân đội Việt
Nam và chính phủ thân Việt Nam tại Campuchia.
Sự phụ thuộc gần như tuyệt đối vào viện trợ của Liên Xô cũng khiến
Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng khi bản thân “đàn anh” xã hội chủ
nghĩa này cũng đang đối mặt với đầy rẫy khó khăn. Cựu Bộ trưởng Thương mại Lê
Văn Triết nhớ lại:
“Có đêm, tôi vừa lên giường chợp mắt lúc gần 1g sáng
thì nhận điện thoại của một lãnh đạo yêu cầu cách chức ngay tham tán thương mại
ở Liên Xô. Mặc dù biết trước tình hình nhưng tôi vẫn hỏi tại sao. Vị lãnh đạo
ấy trả lời rằng tham tán thương mại này không hoàn thành được việc “chạy” sắt
thép, phân bón, thuốc trừ sâu, lương thực từ Liên Xô.
Tôi
vâng, vâng, nhưng không thực hiện yêu cầu này, vì thật lòng nếu tôi ở hoàn cảnh
ông ta cũng không thể làm gì” – đến giờ ông Lê Văn Triết vẫn nhớ kỷ niệm khó
quên thời bị cấm vận, con đường duy nhất của Việt Nam chỉ là phía Liên Xô.”
Sau này, ông Triết có hỏi cụ thể chuyện của tham tán thương mại ấy
thì được nghe sau nỗ lực bất thành ông ta phải điện về nước báo tin “bó tay”!
Liên Xô cũng đang chìm ngập trong khó khăn, không thể viện trợ được như trước
cho Việt Nam (11).
Sự sụp đổ của Liên Xô năm 1991 khiến Việt Nam nhận thức rằng không
thể tiếp tục duy trì một chính sách đối ngoại dựa vào một đồng minh duy nhất.
Thay vào đó, Việt Nam buộc phải mở rộng quan hệ với các quốc gia khác, đặc biệt
là các nước tư bản phát triển, nhằm tiếp cận các nguồn lực quan trọng để không
chỉ thoát khỏi tình trạng kém phát triển (12) mà còn vươn lên trong bối cảnh
toàn cầu hóa..
3.
Duy trì khoảng cách
chiến lược với Mỹ
Sau khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc, Việt Nam bước vào một giai
đoạn đầy thử thách trong việc xây dựng và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa trên
phạm vi cả nước. Chiến tranh đã để lại những hậu quả vô cùng nặng nề, từ nền
kinh tế bị tàn phá nghiêm trọng, cơ sở hạ tầng bị hủy hoại đến khủng hoảng về
nguồn lực và nhân lực. Để tái thiết và phát triển đất nước, Việt Nam rất cần
đến các nguồn vốn đầu tư và hỗ trợ tài chính quan trọng từ bên ngoài. Trong bối
cảnh đó, việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ – một siêu cường tài chính có
tiếng nói quyết định tại Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) –
có thể được xem là một bước đi chiến lược giúp Việt Nam đáp ứng những nhu cầu
cấp thiết này.
Tuy nhiên, thực tế chính trị quốc tế trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh
đã khiến Việt Nam không thể tận dụng cơ hội này. Chính sách đối ngoại của Việt
Nam lúc bấy giờ bị chi phối mạnh mẽ bởi tư duy ý thức hệ. Việc ưu tiên quan hệ
trong nội bộ phe xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là chính sách “Nhất biên đảo” – xây
dựng liên minh chặt chẽ và toàn diện với Liên Xô – không chỉ nhằm nhận được
viện trợ kinh tế, quân sự và chính trị từ khối này, mà còn để củng cố địa vị
lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong nước. Ngược lại, Mỹ bị xem là thế lực thù địch
luôn tìm cách xâm nhập, thao túng và lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Dù chủ nghĩa quốc tế xã hội chủ nghĩa không tuyệt đối ngăn cản
việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, nhưng trên thực tế, tư duy ý thức hệ
đã dẫn đến một thái độ nghi kỵ, nếu không muốn nói là đối kháng, từ phía các
nhà lãnh đạo Việt Nam. Do đó, duy trì một khoảng cách chiến lược với Mỹ, cụ thể
là không chủ động thiết lập quan hệ với Mỹ, không chỉ được chính quyền Việt Nam
xem là một sự lựa chọn, mà còn là một biện pháp bảo vệ chế độ trong bối cảnh
Chiến tranh Lạnh kéo dài. Bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ, nếu được thực
hiện, chỉ có thể diễn ra theo các điều kiện do Việt Nam đặt ra, tức là không
được gây tổn hại đến hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa và quyền lãnh đạo tuyệt đối
của Đảng cộng sản.
Ngoài ra, ĐCSVN nêu cao khẩu hiệu “Độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội”. Điều này có nghĩa là để bảo vệ sự độc lập và chủ quyền quốc
gia, Việt Nam phải chống lại các nước tư bản phương Tây do Mỹ cầm đầu, được xem
là “kẻ thù không đội trời chung” của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Trong tâm
thế đó, mọi cải thiện quan hệ với Mỹ đều được đặt dưới sự giám sát chặt chẽ và
thường xuyên bị trì hoãn
Hơn nữa, Việt Nam trong những năm sau chiến tranh còn chịu ảnh
hưởng của các cuộc xung đột trong khu vực, đặc biệt là cuộc chiến biên giới với
Campuchia và Trung Quốc. Sự đối đầu với Trung Quốc từ cuối thập niên 1970 càng
củng cố thêm sự lệ thuộc của Việt Nam vào Liên Xô, đồng thời làm gia tăng
khoảng cách với Mỹ. Mỹ, lúc bấy giờ, vẫn áp đặt cấm vận đối với Việt Nam và
tiếp tục hỗ trợ các lực lượng chống đối Việt Nam tại Campuchia. Những yếu tố
này càng khiến quan hệ hai nước rơi vào thế bế tắc.
Mặc dù duy trì thái độ đối kháng với Mỹ, Việt Nam vẫn theo dõi sát
sao chính sách đối ngoại của Washington đối với khu vực Đông Nam Á và thế giới
nói chung. Các cơ quan ngoại giao và tình báo của Việt Nam thường xuyên phân
tích động thái của Mỹ đối với các nước trong khu vực để đánh giá tác động tiềm
tàng đến an ninh và lợi ích quốc gia. Một số báo cáo nội bộ của Bộ Ngoại giao
Việt Nam vào cuối thập niên 1970 và đầu thập niên 1980 đã đề cập đến sự thay
đổi trong chính sách của Mỹ, bao gồm việc Washington củng cố quan hệ với ASEAN
nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô và Việt Nam trong khu vực.
Một số nhà lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là những người làm việc trong
lĩnh vực kinh tế và ngoại giao, nhận thức được rằng việc duy trì thái độ đối
kháng với Mỹ có thể khiến đất nước bị cô lập hơn nữa về kinh tế và chính trị.
Điều này đặc biệt rõ ràng trong bối cảnh Việt Nam gặp khó khăn nghiêm trọng do
bị Mỹ và phương Tây cấm vận, trong khi viện trợ từ Liên Xô và Đông Âu có dấu
hiệu suy giảm từ giữa thập niên 1980. Trong các cuộc thảo luận nội bộ, một số
quan chức Việt Nam đã đề xuất thăm dò khả năng cải thiện quan hệ với Mỹ để tìm
kiếm cơ hội giảm nhẹ cấm vận và tiếp cận các nguồn hỗ trợ kinh tế quốc tế, đặc
biệt là từ Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) (13).
Tuy nhiên, những nhận thức này chưa đủ để tạo ra một sự thay đổi
chính sách mang tính đột phá. Áp lực từ hệ tư tưởng và mối quan hệ chặt chẽ với
Liên Xô đã khiến Việt Nam chưa thể thực hiện những điều chỉnh chiến lược lớn
trong quan hệ với Mỹ vào thời điểm đó. Đường lối đối ngoại của Việt Nam trong
giai đoạn này vẫn chịu sự chi phối mạnh mẽ từ tư duy “phe chủ nghĩa xã hội
chống đế quốc,” trong đó Mỹ được xem là kẻ thù chính của phong trào cách mạng
toàn cầu. Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận của ĐCSVN,
trong nhiều bài xã luận từ năm 1979 đến 1985, thường xuyên chỉ trích Mỹ là “đế
quốc hiếu chiến” và “kẻ thù nguy hiểm nhất của các dân tộc trên thế giới.”
Tóm lại, trong giai đoạn hậu Chiến tranh Việt Nam, chính sách đối
ngoại của Việt Nam tập trung vào việc xây dựng và củng cố quan hệ với Liên Xô
và các quốc gia xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu, đồng thời duy trì thái độ đối kháng
với Mỹ, dù không luôn thể hiện rõ ràng. Đường lối này đã khiến Việt Nam bỏ lỡ
cơ hội hòa giải với cựu thù, dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng trong phát triển
kinh tế và hội nhập quốc tế trong nhiều năm sau đó. Chỉ đến khi hệ thống xã hội
chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980, Việt Nam mới có những bước
chuyển mình quan trọng trong chính sách đối ngoại, mở đường cho tiến trình bình
thường hóa quan hệ với Mỹ vào những năm 1990.
IV
BỎ LỠ BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ VIỆT – MỸ
1.
Thiện chí của Tổng
thống Jimmy Carter
Tổng thống Mỹ Gerald Ford ban hành lệnh cấm vận thương mại đối với
Việt Nam vào ngày 4 tháng 4 năm 1975, khi ông ký Sắc lệnh Hành pháp 11857. Lệnh
này được đưa ra trong bối cảnh Chiến tranh Việt Nam đang đến giai đoạn kết
thúc, khi các lực lượng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến gần đến chiến
thắng trước Việt Nam Cộng hòa. Lệnh cấm vận này không chỉ áp đặt hạn chế thương
mại mà còn phong tỏa các tài sản của chính phủ Việt Nam tại Mỹ và cấm mọi giao
dịch tài chính với Việt Nam. Các ngân hàng quốc tế như Ngân hàng thế giới, Ngân
hàng phát triển châu Á, Quỹ tiền tệ quốc tế do Mỹ đứng đầu đều không cho Việt
Nam vay tiền.
Tuy nhiên, ngày 26/3/1976, Ngoại trưởng Mỹ Henry Kissinger gửi Bộ
trưởng Ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) Nguyễn Duy Trinh một công
hàm gợi ý thảo luận về việc thiết lập quan hệ mới giữa hai nước. Ông viết: “Tôi
tin rằng lợi ích của hòa bình và an ninh sẽ được tăng cường khi chúng ta gác
lại quá khứ và xây dựng nền tảng cho một mối quan hệ mới giữa hai quốc gia
chúng ta” (14). Hơn một tháng sau, ngày 30/4/1976, Việt Nam đáp
lại, nhấn mạnh việc bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết.
Ngày 6/1/1977, Mỹ, thông qua Liên Xô, đưa ra kế hoạch 3 bước để
bình thường hóa quan hệ song phương:
1.
Việt Nam cung cấp thông tin về “những người Mỹ mất tích
trong chiến tranh” (MIA).
2.
Mỹ chấp nhận Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc, thiết lập
quan hệ ngoại giao và bắt đầu giao thương.
3.
Mỹ hỗ trợ Việt Nam tái thiết thông qua hợp tác kinh tế và
thương mại.
Tóm lại, chính quyền Gerald Ford đặt MIA như điều kiện tiên quyết,
khiến quan hệ song phương vẫn dậm chân tại chỗ. Chi sau khi Jimmy Carter nhậm
chức tổng thống Mỹ thứ 39 thì cơ hội bình thường hóa mới thực sự được mở ra.
Ngay sau khi được Tổng thống Carter bổ nhiệm Đại sứ Mỹ tại Liên
Hợp Quốc ngày 30/1/1977, Andrew Young tuyên bố: “Chúng tôi coi Việt Nam như một
Nam Tư ở châu Á. Không phải là bộ phận của Trung Quốc hay của Liên Xô, mà là
một nước độc lập. Một nước Việt Nam mạnh và độc lập là phù hợp với lợi ích quốc
gia của Mỹ.” (15)
Ngày 3/3/1977, Carter quyết định nới lỏng một phần cấm vận, cho
phép tàu và máy bay quốc tế vận chuyển hàng hóa đến Việt Nam được tiếp nhiên
liệu tại Mỹ. Ngày 9/3/1977, ông cho phép công dân Mỹ đi thăm Việt Nam và một số
nước bị hạn chế trước đó. Đến giữa tháng 3, Carter cử Leonard Woodcock, Chủ
tịch Công đoàn xe hơi Hoa Kỳ và là người từng chỉ trích mạnh mẽ việc Mỹ hỗ trợ
Việt Nam Cộng hòa, dẫn đầu phái đoàn Mỹ, gồm Thượng nghị sĩ Mansfield, sang
Việt Nam để bàn bạc việc đàm phán bình thường hóa. Carter nói với phái đoàn
rằng ông hy vọng chuyến công tác này “sẽ dẫn đến bình thường hóa hoàn
toàn quan hệ (…) Chúng ta đã trải qua những năm tháng chiến tranh Việt Nam với
rất nhiều vết sẹo, vấn đề tâm lý và những vấn đề khác, chúng cần được chữa
lành. Tôi nghĩ bây giờ không còn thù hận trong lòng người dân Hoa Kỳ”
(16). Kết quả là vòng đàm phán đầu tiên đã diễn ra tại Paris vào ngày
3-4/5/1977.
Đến đây, không thể không tìm hiểu vì sao Carter lại quyết định hòa
giải với Việt Nam trong khi Chiến tranh Lạnh vẫn tiếp diễn.
Carter có thái độ phê phán đối với Chiến tranh Việt Nam, cho dù
con trai trưởng của ông đã tham gia chiến đấu tại Việt Nam. Điều này thể hiện
rõ ràng qua nhiều phát biểu và hành động:
·
Tại Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1976, Carter phát
biểu:
“Mỗi khi đất nước chúng ta mắc phải một sai
lầm nghiêm trọng, người dân Mỹ đều bị loại trừ khỏi quá trình đó. Bi kịch của
Việt Nam và Campuchia… đều có thể đã được tránh khỏi nếu chính phủ của chúng ta
chỉ cần phản ánh sự phán đoán sáng suốt, sự tỉnh táo và phẩm hạnh cao đẹp của
người dân Mỹ.” (17)
·
Trong một cuộc phỏng vấn năm 2006 tại Thư viện Tổng thống
John F. Kennedy (18), ông nói:
“Chiến tranh Việt Nam kết thúc rất tồi tệ đối
với Hoa Kỳ, với thất bại rõ ràng và công khai… Đối thủ của chúng ta ở Việt Nam
hoàn toàn chiến thắng cả về chính trị lẫn quân sự.”
·
Cũng tại cuộc phỏng vấn này, Carter nhận định:
“Chúng ta đã đánh giá thấp sự kiên cường của
người Bắc Việt và đánh giá quá cao khả năng cũng như cam kết của các đồng minh
tại miền Nam Việt Nam.”
·
Trong hồi ký A Full Life: Reflections at
Ninety (2015), Carter khẳng định:
“Chiến tranh Việt Nam là một trong những thất
bại lớn nhất của chính sách đối ngoại Mỹ. Đó là một cuộc chiến mà chúng ta
không có mục tiêu rõ ràng, không có chiến lược chiến thắng, và cuối cùng dẫn
đến sự mất mát không thể cứu vãn. Chúng ta cần thay đổi cách thức tham gia các
cuộc xung đột quốc tế.”
·
Ngay sau lễ nhậm chức ngày 20/1/1977, thực hiện lời hứa
trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Carter ký chỉ thị ân xá cho hàng trăm
nghìn người đã từ chối tham gia quân dịch trong Chiến tranh Việt Nam.
Carter nhận thức rằng việc tái thiết lập quan hệ ngoại giao với
Việt Nam là một bước đi cần thiết nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, đồng thời
thể hiện thiện chí hòa giải và trách nhiệm của Mỹ đối với các quốc gia từng
chịu tổn thất từ chính sách đối ngoại trước đó của Mỹ.
Carter cũng hiểu rằng bình thường hóa quan hệ với Việt Nam không
chỉ là một biểu tượng của sự đối mặt với quá khứ và bài học kinh nghiệm mà còn
nhằm khôi phục lòng tin từ cộng đồng quốc tế sau thất bại nặng nề tại quốc gia
Đông Nam Á này.
Quyết định của Carter xích gần với Việt Nam còn nhằm đối phó với
ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Liên Xô và Trung Quốc ở Đông Nam Á, khu vực có
tầm quan trọng hàng đầu về địa – chính trị. Carter nhận thấy bình thường hóa
quan hệ với Việt Nam không chỉ góp phần ổn định khu vực mà còn giúp giảm bớt sự
phụ thuộc của Việt Nam vào Liên Xô. Thông qua hợp tác chính trị và kinh tế, Mỹ
có thể dần đưa Việt Nam vào quỹ đạo ảnh hưởng của phương Tây, từ đó làm suy yếu
vai trò của Liên Xô trong khu vực.
Tóm lại, Tổng thống Carter cho rằng Chiến tranh Việt Nam là một
thất bại lớn trong chính sách đối ngoại Mỹ, gây tổn thất nặng nề về nhân mạng
và uy tín quốc gia. Với niềm tin rằng Mỹ cần rút ra bài học từ thất bại này,
Carter cam kết thay đổi cách tiếp cận với Việt Nam và các cuộc xung đột quốc
tế, nhấn mạnh vào hòa giải và hợp tác thay vì đối đầu.
2.
Rào cản “Bồi thường
chiến tranh”
Trong đàm phán vòng 1, ngày 3–4/5/1977, Mỹ đề nghị hai bên thiết
lập quan hệ ngoại giao đầy đủ ngay lập tức và vô điều kiện. Đổi lại, Mỹ cam kết
sẽ không cản trở Việt Nam gia nhập Liên Hiệp Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam không
đồng ý, đòi Mỹ trả 3,25 tỷ USD cho việc tái thiết Bắc Việt Nam sau chiến tranh
mà Tổng thống Richard Nixon đã cam kết trong một công hàm đề ngày 1/2/1973 gửi
Thủ tướng Phạm Văn Đồng (19) như điều kiện tiên quyết cho bình thường hóa quan
hệ. Trần Quang Cơ, nguyên Thứ trưởng ngoại giao Việt Nam, nhớ lại:
“Theo chỉ thị đã nhận trước khi đi, ta kiên quyết đòi
phải giải quyết ‘cả gói’ 3 vấn đề: ta và Mỹ bình thường hóa quan hệ (bao gồm cả
việc bỏ cấm vận và thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ), ta giúp Mỹ giải quyết
vấn đề MIA, và Mỹ viện trợ 3,2 tỷ đô la cho Việt Nam như đã hứa hẹn trước đây.”
(20)
Cần khẳng định ngay rằng việc Việt Nam đòi Mỹ bồi thường chiến
tranh dưới dạng viện trợ tái thiết là hoàn toàn hợp lý và chính đáng. Bản thân
cựu Tổng thống Jimmy Carter cũng thẳng thắn thừa nhận: “Yêu cầu của nhân dân Việt
Nam là chúng tôi phải bồi thường cho họ bằng một cách nào đó” (The
demands of the Vietnam people was that we pay reparations to them in some way)
(20). Thế nhưng, phía Mỹ từ chối với lý do là Quốc hội Mỹ không đồng ý khoản
viện trợ này. Lý do này là có cơ sở vì theo Hiến pháp Mỹ, Tổng thống không thể
tự mình ràng buộc quốc gia vào các cam kết tài chính quốc tế mà không có sự phê
chuẩn của Quốc hội, cơ quan có quyền lực phân bổ và kiểm soát chi tiêu của
chính phủ.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy khoản viện trợ 3,25 tỷ USD đã chết
ngay khi nó được Mỹ thiết kế trong Công hàm ngày 1/2/1973 của Nixon gửi Phạm
Văn Đồng (21).
Trong quá trình đàm phán về viện trợ tái thiết, phía Việt Nam đã
yêu cầu không đưa điều kiện phê duyệt của Quốc hội Hoa Kỳ vào cam kết viện trợ.
Trên thực tế, điều kiện này không xuất hiện trong phần chính của Công hàm, bao
gồm 7 nguyên tắc. Thay vào đó, nó được đưa vào phần phụ của văn kiện, mang tên
“Hiểu biết về Chương trình xây dựng lại kinh tế” ở một trang riêng, với nội
dung: “Có sự hiểu biết rằng những đề nghị của ủy ban hỗn hợp kinh tế nói trong
công hàm của Tổng thống gửi Thủ tướng sẽ do mỗi thành viên thực hiện theo những
quy định của Hiến pháp của nước mình.” Rõ ràng, câu chữ này ngụ ý
rằng cam kết của Nixon sẽ bị vô hiệu nếu Quốc hội Mỹ không đồng ý.
Trong hồi ký của mình, Henry Kissinger tiết lộ:
“Chúng tôi ‘thỏa hiệp’ bằng cách nêu sự cần thiết có
sự thông qua của Quốc hội trên một trang riêng, được gửi đồng thời và có cùng
sức nặng.” (22)
Tiết lộ này của cựu Cố vấn An ninh Quốc gia và Ngoại trưởng Mỹ cho
thấy rõ ý đồ bội ước của chính quyền Nixon, bởi họ biết chắc rằng Quốc hội Mỹ
sẽ không chuẩn y viện trợ tái thiết cho một Việt Nam cộng sản trong bối cảnh
Chiến tranh Lạnh. Nói cách khác, Mỹ sử dụng viện trợ như một “công cụ đàm phán”
chứ không phải để thực hiện.
Tóm lại, cả Điều 21 của Hiệp định Paris lẫn nội dung công hàm đều
được thiết kế một cách tinh vi và sử dụng như chiến thuật nhằm thuyết phục Việt
Nam ký Hiệp định và trao trả tù binh sau đó. Điều này giúp Mỹ rút quân trong
danh dự, tránh bị coi là chiến bại, đồng thời đạt được mục tiêu nhận lại tù
binh và thông tin về các quân nhân mất tích trong chiến tranh (POW/MIA), cũng
như giảm áp lực từ dư luận trong nước và quốc tế. Cách làm này cho thấy các cam
kết của Mỹ thực chất là một sự đánh lừa Việt Nam, mà theo cách nói dân gian
Việt Nam, là “đưa trâu qua rào”!
Ngày 2–3/6, trong đàm phán vòng 2, Mỹ nêu lại các đề nghị hồi
tháng 5 nhưng Việt Nam vẫn đòi bồi thường chiến tranh. Mặc dù vậy, chính quyền
Carter vẫn hướng đến bình thường hóa quan hệ khi không phủ quyết đơn xin gia
nhập Liên Hiệp Quốc của Việt Nam. Động thái này của Mỹ mở đường cho khuyến nghị
ngày 20/7/1977 của Hội đồng Bảo an, với kết quả là Việt Nam chính thức được kết
nạp vào tổ chức quốc tế lớn nhất này hai tháng sau đó, vào ngày 20/09/1977.
Ngày 11/7/1978, tại vòng đàm phán thứ 3 ở Tokyo, Trưởng đoàn đàm
phán Việt Nam Phan Hiền tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng bình thường hóa vô điều
kiện với Hoa Kỳ”, tức bỏ yêu cầu bồi thường chiến tranh 3,25 tỷ USD. Tuy nhiên
Mỹ không còn mặn mà vì lúc này Carter dưới ảnh hưởng của Cố vấn an ninh quốc
gia Brzezinski chú trọng vào đàm phán bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc
trong khi Trung Quốc và Việt Nam lại là đối thủ của nhau (23).
Trong một nỗ lực cuối cùng, tháng 10 năm 1978, Trưởng đoàn đàm
phán Việt Nam lúc này là Nguyễn Cơ Thạch hối thúc nhà đàm phán Mỹ R.
Holbrooke ký thỏa thuận bình thường hóa. Thế nhưng Hoa Kỳ đã từ chối khéo: “Mỹ
không thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ với Việt Nam, nhưng phải chậm
lại vì cần làm rõ ba vấn đề: sự thù địch của Việt Nam với Campuchia; Hiệp ước
Việt-Xô và tình trạng gia tăng thuyền nhân Việt Nam.” (24)
3.
Nguyên nhân
Việc Việt Nam bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ trước
khi xảy ra cuộc phản công vào Campuchia để lật đổ chế độ Khmer Đỏ vào tháng
12/1978 có những nguyên nhân chính sau đây:
Một
là, văn hóa toàn trị và nhận thức sai lệch về hệ thống chính trị Mỹ.
Với niềm tin tuyệt đối rằng chỉ có chủ nghĩa Mác – Lênin, mà Đảng
là hiện thân, mới có thể lãnh đạo Việt Nam thoát khỏi nghèo đói và xây dựng một
xã hội công bằng, ĐCSVN xem vai trò lãnh đạo của mình là không thể thách thức.
Hệ thống quyền lực tập trung tuyệt đối mà Đảng thiết lập khiến mọi quyết định
quan trọng đều phải tuân theo sự chỉ đạo của lãnh đạo tối cao, trong đó Tổng Bí
thư là người quyết định sau cùng. Không chỉ là một thiết chế chính trị, đây còn
là một dạng văn hóa toàn trị, nơi mà bất kỳ sự
phản biện nào cũng bị xem là biểu hiện của “tư tưởng phản động” hoặc “suy thoái
tư tưởng.”
Trong hai thập kỷ nắm quyền ở miền Bắc (1954 – 1975), ĐCSVN ngày
càng khẳng định quan điểm rằng quyền lực phải tập trung tuyệt đối: ai kiểm soát
nhà nước thì người đó có toàn quyền quyết định mọi vấn đề. Chính vì vậy, khi
quan sát hệ thống chính trị phương Tây, đặc biệt là Mỹ, Hà Nội có xu hướng diễn
giải theo mô hình mà họ đã quen thuộc – một cơ cấu tập quyền nơi người đứng đầu
có thẩm quyền tối cao, còn các thiết chế khác chỉ đóng vai trò bổ trợ.
Xuất phát từ cách nhìn này, ĐCSVN có xu hướng đánh giá sai bản
chất của tam quyền phân lập – nguyên tắc cốt lõi trong nền dân chủ Mỹ. Họ cho
rằng dù về mặt hình thức có Quốc hội và Tòa án Tối cao, nhưng thực chất Tổng
thống Mỹ vẫn có thể chi phối toàn bộ hệ thống, tự mình đưa ra những quyết định
mang tính chiến lược mà không gặp trở ngại đáng kể. Trong tư duy của Hà Nội,
những vấn đề quan trọng như ngân sách viện trợ Việt Nam, chính sách đối ngoại
hay các thỏa thuận an ninh đều nằm trong tay Tổng thống, và nếu muốn, ông ta
hoàn toàn có thể qua mặt Quốc hội. Đây là một biểu hiện của “ảnh xạ
tư duy” (mirror imaging) trong khoa học chính trị, khi một
chính thể áp đặt một cách vô thức logic vận hành của mình lên một mô hình khác,
dù giữa hai hệ thống có sự khác biệt căn bản.
Điều này cũng phản ánh tâm lý “suy bụng ta ra bụng người” như
người xưa nói, khi Hà Nội cho rằng chính trường Mỹ vận hành
theo quy luật mà họ đã trải nghiệm – nơi mà lãnh đạo cao nhất có thể tự quyết
định mọi thứ mà không cần đến sự kiểm soát hay đối trọng từ các cơ quan khác
trong bộ máy nhà nước.
Cách hiểu sai lầm về cơ chế quyền lực của Mỹ đã ảnh hưởng sâu sắc
đến cách Hà Nội tiếp cận vấn đề viện trợ tái thiết sau chiến tranh. ĐCSVN tin
rằng việc Quốc hội Mỹ không phê chuẩn viện trợ chỉ là một cái cớ mà Tổng thống
sử dụng để lẩn tránh trách nhiệm với Việt Nam. Theo logic này, nếu có thể buộc
Nhà Trắng cam kết một thỏa thuận, thì Quốc hội Mỹ không còn lựa chọn nào khác
ngoài việc chấp thuận.
Với niềm tin đó, trong các cuộc đàm phán về viện trợ tái thiết, Hà
Nội luôn phản đối điều kiện cần có sự phê duyệt của Quốc hội Mỹ, cho rằng đây
chỉ là một chiến thuật nhằm trì hoãn hoặc né tránh cam kết. Họ cho rằng nếu Washington
thực sự có thiện chí, thì Tổng thống Mỹ hoàn toàn có thể quyết định đơn phương
mà không cần sự thông qua của cơ quan lập pháp. Chính nhận thức này khiến Hà
Nội đánh giá không đúng mức độ ràng buộc của quy trình chính trị Mỹ, dẫn đến
việc duy trì lập trường cứng rắn và thiếu linh hoạt trong đàm phán.
Thay vì tìm kiếm cách tiếp cận thực tế hơn, như vận động các nghị
sĩ để tạo ra sự đồng thuận trong Quốc hội – điều mà nhiều quốc gia có kinh
nghiệm làm việc với Mỹ thường thực hiện – Hà Nội lại tập trung toàn bộ nỗ lực
vào gây áp lực với Nhà Trắng. Họ tin rằng nếu có thể thuyết phục hoặc gây sức
ép lên Tổng thống, thì viện trợ sẽ tự động được thông qua. Tuy nhiên, họ đã
không lường trước được rằng Quốc hội Mỹ, với quyền lập pháp độc lập, có thể bác
bỏ những đề xuất từ Tổng thống nếu không có đủ sự ủng hộ từ các nghị sĩ. Đặc
biệt, sự phản đối mạnh mẽ từ những nghị sĩ có quan điểm cứng rắn với Việt Nam
đã khiến mọi nỗ lực đàm phán của Hà Nội rơi vào bế tắc, khi viện trợ tái thiết
không thể trở thành hiện thực dù có bất kỳ thỏa thuận nào từ phía hành pháp.
Hai
là, say men chiến thắng và chủ nghĩa duy ý chí.
Sau chiến thắng năm 1975, Việt Nam bước vào một trạng thái hưng
phấn cực độ, với niềm tin vững chắc vào sức mạnh quân sự và đường lối cách mạng
mà họ đã theo đuổi. Từ việc đánh bại một siêu cường như Mỹ, các nhà lãnh đạo
Việt Nam tự tin rằng không có gì là không thể. Họ cho rằng chiến thắng quân sự
đã chứng minh sự đúng đắn tuyệt đối của ý thức hệ xã hội chủ nghĩa và không cần
phải điều chỉnh chiến lược để hòa giải với Mỹ, mà thay vào đó có thể đặt ra
những điều kiện có lợi cho Việt Nam trong quan hệ quốc tế. Đặc biệt, yêu cầu Mỹ
bồi thường chiến tranh trở thành điều kiện tiên quyết trong các cuộc đàm phán
bình thường hóa quan hệ. Tuy nhiên, Việt Nam đã không tính đến bối cảnh chính
trị trong nước Mỹ, nơi mà Quốc hội và chính quyền không có ý định thực hiện bất
kỳ khoản bồi thường nào, họ chỉ muốn khép lại quá khứ chiến tranh và tập trung
vào tương lai. Điều này khiến Việt Nam tự tạo ra rào cản ngoại giao, kéo dài
tình trạng cô lập quốc tế thay vì tận dụng cơ hội để phục hồi và phát triển đất
nước.
Tâm
lý chiến thắng, dù mang đến sự tự tin, đã dẫn đến một sự chủ quan trong điều
hành đất nước. Giới lãnh đạo Việt Nam tin tưởng rằng sức mạnh ý chí của mình có
thể khắc phục mọi khó khăn, điều này phản ánh rõ nét qua chính sách đối nội.
Một ví dụ điển hình là chính sách cải tạo công thương nghiệp tư nhân ở miền Nam
sau chiến tranh. Lãnh đạo Việt Nam tin rằng có thể nhanh chóng chuyển đổi một
nền kinh tế thị trường năng động thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa theo mô
hình Liên Xô mà không cần phải thực hiện một quá trình chuyển tiếp thực tế.
Điều này thể hiện rõ tư tưởng duy ý chí, khi mà sự kiên định vào lý tưởng không
cho phép các ý kiến phản biện từ nội bộ ĐCSVN và xã hội được lắng nghe. Các
chính sách được áp dụng mà không tính đến điều kiện thực tế, khiến nền kinh tế
ngày càng trì trệ. Trong khi đó, các vấn đề về thiếu hụt hàng hóa, lạm phát và
khủng hoảng lương thực ngày càng nghiêm trọng, khiến Việt Nam phải phụ thuộc
vào viện trợ từ Liên Xô để duy trì sự ổn định.
Ngoài
ra, sự lạc quan thái quá này còn khiến Việt Nam không nhận thức được sự thay
đổi của cục diện quốc tế, đặc biệt là quan hệ Mỹ – Trung. Việc Mỹ và Trung Quốc
cải thiện quan hệ đã thay đổi môi trường chính trị toàn cầu, nhưng Việt Nam
không chủ động điều chỉnh chiến lược ngoại giao để thích ứng với tình hình mới.
Ngược lại, Việt Nam vẫn tiếp tục đối đầu với phương Tây và đẩy mạnh xung đột
với Trung Quốc, khiến quốc gia Đông Nam Á này càng trở nên cô lập trong cộng
đồng quốc tế và phụ thuộc hoàn toàn vào Liên Xô.
Đến
giữa thập niên 1980, khi Việt Nam phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng và Liên Xô bắt đầu suy yếu, lãnh đạo Việt Nam mới nhận ra rằng mô
hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung không thể cứu vãn tình hình. Sự thay đổi
chính sách qua việc thực hiện Đổi Mới chính là một phản ứng trước áp lực sống
còn và sự suy thoái của Liên Xô. Đây là minh chứng cho thấy tư duy duy ý chí có
thể bị bẻ gãy khi đối mặt với thực tế khách quan. Nếu Việt Nam nhận thức được
sớm hơn những hạn chế của mô hình kinh tế kế hoạch hóa, đất nước có thể đã
tránh được một thập kỷ mất mát về kinh tế và ngoại giao.
Tóm
lại, say men chiến thắng đã khiến Việt Nam tự tin quá mức vào sức mạnh của
mình, dẫn đến tư duy cứng rắn trong quan hệ với Mỹ và chủ nghĩa duy ý chí trong
điều hành đất nước. Kết quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng đình trệ, quan hệ
quốc tế bị cô lập và cơ hội phát triển bị bỏ lỡ.
Ba là, tư duy Chiến tranh Lạnh
và sự nghi kỵ đối với Mỹ.
Sau
Chiến tranh Việt Nam, giới lãnh đạo Hà Nội vẫn duy trì tư duy Chiến tranh Lạnh,
coi Mỹ là một thế lực đế quốc luôn tìm cách can thiệp và lật đổ các chính quyền
xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này không chỉ xuất phát từ kinh nghiệm đối đầu trực
tiếp trong hai thập kỷ chiến tranh mà còn được củng cố bởi học thuyết đấu tranh
giai cấp của chủ nghĩa Mác-Lênin, theo đó, xung đột giữa các quốc gia tư bản và
các nước xã hội chủ nghĩa là không thể tránh khỏi.
Trong
mắt Hà Nội, Mỹ không từ bỏ dã tâm chống cộng mà chỉ thay đổi phương thức, từ
đối đầu quân sự sang các biện pháp mềm dẻo hơn như cấm vận kinh tế, cô lập
ngoại giao và tác động chính trị nhằm làm suy yếu chính quyền cộng sản từ bên
trong. Việc Washington duy trì lệnh cấm vận đối với Việt Nam sau chiến tranh, thay
vì có những động thái hàn gắn quan hệ như đã làm với Nhật Bản hay Đức sau Thế
chiến II, càng khiến Hà Nội tin rằng Mỹ chưa thực sự từ bỏ mục tiêu làm suy yếu
chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Mặc
dù chính quyền Carter theo đuổi chính sách hòa giải với các cựu thù, trong đó
có Việt Nam, nhưng Hà Nội không nhận diện được sự thay đổi này. Thay vì xem đây
là một cơ hội để thoát khỏi thế cô lập, họ tin rằng mọi động thái của Mỹ đều
nhằm che giấu những toan tính lật đổ về lâu dài. Quan điểm này xuất phát không
chỉ từ sự ngờ vực đối với Mỹ mà còn từ niềm tin rằng Việt Nam có thể tồn tại và
phát triển mà không cần thỏa hiệp với phương Tây, miễn là có sự hậu thuẫn của
Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa.
Trong
bối cảnh đó, việc Mỹ tiếp tục hỗ trợ người Việt chống cộng ở hải ngoại càng
củng cố thêm nỗi lo ngại của ĐCSVN. Những tổ chức do người Việt lưu vong thành
lập được xem là bằng chứng cho thấy Washington chưa từ bỏ ý định can thiệp vào
tình hình nội bộ Việt Nam. Việc các nhóm này nhận được sự hậu thuẫn từ các
chính trị gia Mỹ và một bộ phận trong chính quyền càng làm gia tăng mối nghi
kỵ, khiến Hà Nội tin rằng bất kỳ động thái tiếp cận nào từ Washington cũng đều
có thể mang theo những toan tính gây bất ổn cho chế độ.
Không
chỉ vậy, sự thay đổi chiến lược của Mỹ khi chuyển sang hợp tác với Trung Quốc –
quốc gia đang có căng thẳng với Việt Nam – càng làm sâu sắc thêm sự nghi ngờ
của Hà Nội về tính nhất quán trong chính sách của Washington. Từ góc nhìn của
Việt Nam, Mỹ không chỉ bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc mà còn bí mật
thỏa thuận với Bắc Kinh để kiềm chế ảnh hưởng của Liên Xô tại châu Á. Điều này
khiến Hà Nội lo ngại rằng Mỹ sẵn sàng sử dụng Trung Quốc như một đối trọng để
gây áp lực lên Việt Nam, đặc biệt trong bối cảnh căng thẳng Việt-Trung ngày
càng leo thang, dẫn đến cuộc xâm lược của Trung Quốc năm 1979. Việc Washington
không lên án cuộc tấn công của Trung Quốc vào Việt Nam càng củng cố suy nghĩ
rằng Mỹ không thể là một đối tác đáng tin cậy.
Nhìn
chung, kinh nghiệm từ các cuộc đối đầu trước đây cùng với sự thiếu lòng tin vào
thiện chí của Washington khiến giới lãnh đạo Việt Nam khó có thể chấp nhận khả
năng Mỹ trở thành một đối tác trung lập trong giai đoạn hậu chiến. Thay vì tìm
kiếm một giải pháp ngoại giao thực dụng nhằm cải thiện quan hệ, Hà Nội tiếp tục
duy trì thế đối đầu.
Bốn là, “Độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”.
Sau
khi đất nước thống nhất, ĐCSVN xác định tư tưởng cốt lõi trong đường lối lãnh
đạo là “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”,
coi việc duy trì chủ nghĩa xã hội là điều kiện tiên quyết để bảo vệ nền độc lập
quốc gia. Quan điểm này xuất phát từ niềm tin rằng chỉ có mô hình xã hội chủ
nghĩa mới giúp Việt Nam giữ vững chủ quyền trước sức ép từ các cường quốc tư
bản, đồng thời đảm bảo sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng Cộng sản. Trong mắt Hà
Nội, việc tách rời độc lập dân tộc khỏi chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với việc
chấp nhận rủi ro bị lật đổ hoặc rơi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản, điều mà
họ cho rằng đã từng xảy ra với nhiều nước sau khi giành độc lập.
Do
đó, việc thiết lập quan hệ với Mỹ – một cường quốc tư bản – không chỉ là vấn đề
ngoại giao mà còn là một thách thức ý thức hệ. Trong bối cảnh Việt Nam vừa trải
qua một cuộc chiến tranh kéo dài với Mỹ, việc bình thường hóa quan hệ có thể bị
xem là đi ngược lại con đường cách mạng mà ĐCSVN đã lãnh đạo. Hà Nội đặc biệt
lo ngại rằng nếu quan hệ với Mỹ được cải thiện, làn sóng mở cửa về kinh tế và
văn hóa sẽ trở nên khó kiểm soát, tạo điều kiện cho tư tưởng tư bản xâm nhập
vào xã hội Việt Nam. Điều này không chỉ tác động đến nền kinh tế mà còn có nguy
cơ làm suy yếu niềm tin vào hệ tư tưởng Mác – Lênin, vốn được ĐCSVN xem là nền
tảng cho sự tồn vong của chế độ.
Nỗi
lo ngại này càng trở nên rõ rệt khi vào thời điểm đó, ĐCSVN đang triển khai
chính sách cải tạo công thương nghiệp tư bản tư nhân ở miền Nam, với
mục tiêu xóa bỏ thành phần kinh tế tư bản chủ nghĩa, chuyển đổi toàn bộ nền
kinh tế sang mô hình tập trung, bao cấp theo kiểu Liên Xô. Việc kiểm soát tư
nhân, quốc hữu hóa tư liệu sản xuất không chỉ là một chính sách kinh tế mà còn
là một biện pháp củng cố quyền lực chính trị, nhằm triệt tiêu mọi ảnh hưởng của
giai cấp tư sản và ngăn chặn khả năng phục hồi của chủ nghĩa tư bản. Trong bối
cảnh đó, bất kỳ động thái nào hướng tới hợp tác với Mỹ đều có thể bị xem là một
bước lùi về ý thức hệ, làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng và đe dọa đến mục
tiêu “tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội”.
Ngoài
ra, việc duy trì khoảng cách với Mỹ còn được xem là cần thiết để bảo vệ sự “thuần
khiết” của hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. ĐCSVN lo ngại
rằng nếu Việt Nam hòa hoãn với Mỹ quá sớm, điều này có thể tạo ra tâm lý dao
động trong nội bộ Đảng và xã hội, dẫn đến những tranh luận về khả năng điều
chỉnh chính sách hoặc thậm chí thay đổi định hướng phát triển của đất nước.
Trong khi đó, việc củng cố quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa lại
mang đến sự bảo đảm vững chắc hơn, không chỉ về kinh tế và quân sự mà còn về
mặt chính trị – tư tưởng. Liên Xô không chỉ hỗ trợ Việt Nam về viện trợ mà còn
cung cấp một mô hình phát triển mà ĐCSVN tin tưởng có thể giúp Việt Nam đạt
được sự thịnh vượng mà không cần phải thỏa hiệp với chủ nghĩa tư bản.
Tóm
lại trong giai đoạn hậu chiến, ĐCSVN chủ
động duy trì khoảng cách với phương Tây, Mỹ trước hết,
không chỉ vì lý do lịch sử mà còn nhằm bảo vệ tính chính danh của Đảng, ngăn
chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa tư bản, và củng cố niềm tin vào con đường mà họ đã
lựa chọn.
Năm là, quan hệ
đồng minh với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Sau
năm 1975, Việt Nam đặt ưu tiên hàng đầu vào việc củng cố quan hệ với Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa, coi đây là nền tảng cho an ninh quốc gia, phát triển
kinh tế và duy trì hệ tư tưởng Marx-Lenin. Hà Nội tin rằng chỉ có sự hỗ trợ từ
khối xã hội chủ nghĩa mới đảm bảo được nguồn viện trợ thiết yếu để tái thiết
đất nước cũng như đối phó với các thách thức an ninh sau chiến tranh. Chính vì
vậy, Việt Nam tích cực tham gia vào các thể chế của khối Xô viết, điển hình là
việc gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (COMECON) và ký Hiệp ước Hữu nghị và
Hợp tác với Liên Xô vào năm 1978.
Mối
quan hệ đồng minh này mang lại cho Việt Nam nguồn hỗ trợ to lớn cả về kinh tế
lẫn quân sự. Viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông Âu giúp Việt Nam bước đầu
khắc phục hậu quả chiến tranh, tái thiết cơ sở hạ tầng và phát triển công
nghiệp nặng theo mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Ngoài ra, sự bảo trợ
về mặt quốc phòng từ Matxcơva được xem là yếu tố răn đe quan trọng trước các
mối đe dọa từ Trung Quốc và phương Tây. Liên Xô cung cấp vũ khí, huấn luyện
quân sự và hỗ trợ kỹ thuật, giúp Việt Nam hiện đại hóa lực lượng vũ trang, đặc
biệt là không quân và hải quân.
Tuy
nhiên, chính sách dựa vào Liên Xô cũng đặt Việt Nam vào thế bị động và hạn chế
khả năng điều chỉnh chính sách đối ngoại một cách linh hoạt. Sự phụ thuộc quá
mức vào Matxcơva khiến Hà Nội không có nhiều dư địa để mở rộng quan hệ với các
nước khác, đặc biệt là phương Tây. Giới lãnh đạo Việt Nam lo ngại rằng bất kỳ
động thái nào nhằm cải thiện quan hệ với Mỹ có thể gây tổn hại đến mối quan hệ
với Liên Xô – quốc gia đóng vai trò then chốt trong việc bảo đảm an ninh và hỗ
trợ phát triển. Điều này dẫn họ đến tâm lý “không cần Mỹ”.
Bên
cạnh đó, khi quan hệ Việt – Trung xấu hẳn đi vào cuối những năm 1970, đặc biệt
sau khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia năm 1978 để lật đổ chế độ diệt chủng
Khmer Đỏ, Hà Nội càng phải dựa vào Liên Xô để đối phó với áp lực từ Bắc Kinh.
Trung Quốc coi sự hiện diện quân sự của Việt Nam tại Campuchia là mối đe dọa
đối với lợi ích của mình trong khu vực và đã phát động cuộc chiến tranh biên
giới chống Việt Nam vào tháng 2 năm 1979. Trong bối cảnh đó, Liên Xô trở thành
đối tác duy nhất mà Việt Nam có thể tin cậy để bảo vệ lợi ích chiến lược của
mình. Việc Matxcơva cam kết hỗ trợ Việt Nam thông qua Hiệp ước Hữu nghị và Hợp
tác năm 1978 đã củng cố thêm mối quan hệ đồng minh giữa hai nước, nhưng đồng
thời cũng đẩy Việt Nam vào thế đối đầu trực diện với Trung Quốc và phương Tây.
Tình
hình trở nên phức tạp hơn khi Mỹ và Trung Quốc thiết lập quan hệ ngoại giao vào
ngày 1/1/1979, dẫn đến sự cô lập ngày càng sâu sắc của Việt Nam trên trường
quốc tế. Việc Mỹ không lên tiếng phản đối Trung Quốc tấn công biên giới phía
Bắc Việt Nam vào tháng 2 năm 1979 càng củng cố nhận thức của Hà Nội rằng Mỹ
không thể là một đối tác đáng tin cậy. Trong khi đó, phương Tây áp đặt cấm vận
kinh tế đối với Việt Nam, khiến nền kinh tế vốn đã khó khăn sau chiến tranh
càng rơi vào tình trạng trì trệ. Dù nhận được viện trợ từ Liên Xô và Đông Âu xã
hội chủ nghĩa, Việt Nam vẫn gặp nhiều thách thức trong việc xây dựng nền kinh tế
tự chủ và bền vững.
Nhìn
chung, chính sách đối ngoại thiên về khối xã hội chủ nghĩa của Việt Nam trong
giai đoạn này không chỉ làm sâu sắc hơn sự đối đầu với phương Tây mà còn khiến
việc cải thiện quan hệ với Mỹ trở nên xa vời, ngay cả khi điều đó có thể mang
lại lợi ích chiến lược lâu dài. Việc quá phụ thuộc vào Liên Xô khiến Việt Nam
không thể điều chỉnh chính sách một cách linh hoạt để thích ứng với những thay
đổi trong cục diện quốc tế. Chỉ đến khi Liên Xô suy yếu từ giữa những năm 1980
và Việt Nam lâm vào khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng, Hà Nội mới buộc phải tìm
kiếm những lựa chọn mới trong chính sách đối ngoại, mở đường cho quá trình bình
thường hóa quan hệ với Mỹ vào thập niên 1990.
Sáu là, mô hình kinh tế bao cấp
và định hướng chính trị cứng nhắc.
Ngay
sau khi đất nước thống nhất, Việt Nam đã quyết định áp dụng mô hình kinh tế kế
hoạch hóa tập trung theo mẫu hình Liên Xô, nơi mọi quyết định quan trọng về sản
xuất, phân phối và tiêu thụ đều được Nhà nước kiểm soát và quyết định. Điều này
có nghĩa là Nhà nước không chỉ là người quyết định các chỉ tiêu kinh tế mà còn
đảm nhiệm luôn các công việc tổ chức, điều hành và phân phối nguồn lực. Đây là
đặc điểm của một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, trong đó quyền lực của Nhà nước
và Đảng Cộng sản được tập trung tuyệt đối.
Lãnh
đạo Hà Nội, dưới sự ảnh hưởng của tư tưởng Mác-Lênin, tin rằng sự hỗ trợ từ
Liên Xô và các quốc gia trong phe xã hội chủ nghĩa sẽ đủ để giúp Việt Nam phát
triển mà không cần sự hợp tác với Mỹ hoặc các nước phương Tây khác. Chính vì
vậy, việc bình thường hóa quan hệ với Mỹ không được xem là một ưu tiên cấp
thiết. Đối với họ, sự tự lực cánh sinh là khả thi nếu có sự giúp đỡ từ các quốc
gia cùng hệ thống chính trị.
Một
trong những chính sách quan trọng trong quá trình cải tạo nền kinh tế miền Nam
sau năm 1975 là quốc hữu hóa các doanh nghiệp tư nhân và hợp tác hóa sản xuất.
Đây là một chính sách tập trung vào việc xóa bỏ nền kinh tế thị trường tự do
của miền Nam, vốn có thể là cầu nối quan trọng trong việc thiết lập các mối
quan hệ thương mại với Mỹ và các nước tư bản phát triển khác. Thay vì khai thác
và phát huy khu vực kinh tế tư nhân, chính phủ Hà Nội lại chuyển sang quản lý
chặt chẽ mọi lĩnh vực sản xuất và kinh doanh, ưu tiên cho các doanh nghiệp quốc
doanh.
Mỹ
tiếp tục áp đặt cấm vận kinh tế đối với Việt Nam sau năm 1975, một phần vì sự
thù địch chính trị trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, nhưng cũng do lo ngại về
chính quyền cộng sản tại Hà Nội. Đối với lãnh đạo Việt Nam, đây là một công cụ
chiến lược của Mỹ nhằm bóp nghẹt nền kinh tế Việt Nam, làm cho đất nước không
thể phát triển và hòa nhập với nền kinh tế thế giới. Chính quyền Hà Nội coi đây
là một hình thức trừng phạt chính trị và do đó, cảm thấy bị ép buộc phải duy
trì lập trường cứng rắn đối với Mỹ. Thay vì nỗ lực tìm ra các cách thức đàm
phán để dỡ bỏ lệnh cấm vận, chính phủ Hà Nội tập trung vào việc gây sức ép lên
chính quyền Mỹ, với hy vọng rằng Washington sẽ thay đổi thái độ mà không cần
phải thay đổi chính sách kinh tế hoặc đàm phán với các quốc gia phương Tây.
Tổng
quát lại, tất cả những nguyên nhân kể trên của việc Việt Nam bỏ lỡ bình thường
hóa quan hệ với Mỹ đều bị ý thức hệ chi phối.
4.
Những hệ lụy
Việc
Việt Nam bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ dưới thời Tổng thống Jimmy
Carter đã để lại những hệ quả sâu rộng đối với chính sách đối ngoại của Việt
Nam, đặc biệt trong bối cảnh chính trị quốc tế của những năm 1970-1980. Dưới
đây là một số hệ quả:
Thứ nhất, mất đi cơ hội nhận
viện trợ kinh tế và tái thiết từ Mỹ.
Trong
bối cảnh nền kinh tế tàn phá, hạ tầng cơ sở suy yếu và nguồn lực tài chính cạn
kiệt, Mỹ với tiềm lực kinh tế vượt trội đã có thể cung cấp viện trợ khẩn cấp
giúp khôi phục sản xuất nông nghiệp, xây dựng lại hệ thống giao thông và cải
thiện đời sống nhân dân – như đã thực hiện với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước
Đông Nam Á khác sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Ngoài ra, Mỹ còn là trung tâm
đổi mới công nghệ và chuyển giao kỹ thuật, từ đó mở ra cơ hội thu hút đầu tư
của các tập đoàn đa quốc gia và tiếp cận thị trường tiêu thụ rộng lớn, một điểm
đến tiềm năng cho các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như nông sản, dệt may và thủy
sản. Nếu quan hệ được bình thường hóa, Việt Nam có thể đã tận dụng lợi thế này
để thúc đẩy xuất khẩu, tạo nguồn thu ngoại tệ và giảm bớt sự phụ thuộc vào viện
trợ từ khối xã hội chủ nghĩa.
Thay
vào đó, Việt Nam buộc phải dựa vào viện trợ từ Liên Xô và các nước Đông Âu, vốn
chủ yếu tập trung vào hỗ trợ quân sự và đã giảm sút mạnh kể từ giữa những năm
1980, không đủ để bù đắp các tổn thất kinh tế do lệnh cấm vận của Mỹ gây ra.
Thứ hai, căng thẳng với các
quốc gia phương Tây.
Việc
Việt Nam duy trì lập trường đối đầu với Mỹ đã khiến quan hệ song phương rơi vào
bế tắc và làm cho các quốc gia phương Tây – đặc biệt là các thành viên NATO và
EU – dè dặt trong việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Trong bối
cảnh Chiến tranh Lạnh, khi các nước phương Tây xem Việt Nam là một quốc gia xã
hội chủ nghĩa gắn liền với Liên Xô, họ hạn chế các cơ hội hợp tác kinh tế,
thương mại và chuyển giao công nghệ. Điều này đã gây khó khăn cho Việt Nam
trong việc tiếp cận nguồn vốn đầu tư từ các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân
hàng Thế giới và Quỹ Tiền tệ Quốc tế, từ đó làm suy yếu khả năng đổi mới công
nghiệp và hiện đại hóa nền kinh tế.
Bên
cạnh đó, sự phụ thuộc quá mức vào viện trợ của Liên Xô đã làm cho Việt Nam
không thể khai thác hết tiềm năng hợp tác quốc tế. Trong khi các quốc gia
phương Tây liên tục đổi mới về khoa học công nghệ và phát triển nền kinh tế thị
trường, Việt Nam vẫn mắc kẹt trong mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, kém hiệu
quả và chậm cải cách. Sự căng thẳng này cũng làm suy giảm vị thế quốc tế của
Việt Nam, khiến nước ta khó tham gia đầy đủ vào các tổ chức kinh tế – thương
mại toàn cầu, trái ngược với các quốc gia Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia và
Singapore, những nước đã tận dụng các hiệp định thương mại và chuyển giao công
nghệ để thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
Thứ ba, cô lập trên trường quốc
tế.
Khi
các quốc gia trên thế giới chủ động thiết lập mối quan hệ với Mỹ để mở rộng ảnh
hưởng và thúc đẩy phát triển, Việt Nam lại bị hạn chế trong việc tham gia các
tổ chức quốc tế trọng yếu như Liên Hợp Quốc, Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ
Quốc tế và WTO. Sự thiếu vắng này dẫn đến mất cơ hội tiếp cận nguồn vốn, công
nghệ và các hỗ trợ phát triển kinh tế.
Bên
cạnh đó, Việt Nam gặp khó khăn khi không được tham gia đầy đủ các diễn đàn
chính trị và hợp tác khu vực do Mỹ và các đồng minh kiểm soát, như Hội nghị
thượng đỉnh G7, APEC hay ASEAN. Sự vắng mặt này đã làm suy giảm vai trò ngoại
giao và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.
Hơn
nữa, các nước Đông Nam Á, đặc biệt là những đối tác truyền thống của Mỹ như
Thái Lan, Singapore và Malaysia, đã giữ khoảng cách với Việt Nam do lo ngại về
khả năng lan tỏa tư tưởng cộng sản. Điều này càng trầm trọng khi Việt Nam can
thiệp quân sự vào Campuchia từ cuối năm 1977, khiến mối quan hệ với các nước
ASEAN trở nên căng thẳng và làm gia tăng sự nghi ngờ về cam kết của Việt Nam
đối với khu vực.
Tóm
lại, việc không bình thường hóa quan hệ với Mỹ đã đẩy Việt Nam vào thế bị động,
làm trì hoãn quá trình hội nhập quốc tế và cản trở sự phát triển kinh tế trong
nhiều năm sau đó.
Thứ tư, Trung Quốc xâm lược.
Vào
cuối tháng 12 năm 1978, Việt Nam quyết định tổng phản công vào Campuchia và hai
tuần sau, ngày 7/1/1979, đã lật đổ chế độ diệt chủng Pol Pot– một đồng minh
chiến lược của Trung Quốc, vốn có tham vọng mở rộng lãnh thổ ở Đông Nam Á và
ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô trong khu vực. Động thái này được Bắc Kinh coi
là thách thức trực tiếp đối với lợi ích chiến lược của mình.
Để
trả đũa, Trung Quốc đã huy động một lực lượng lên tới 600.000 quân vào ngày
17/2/1979 và tiến hành tấn công đồng loạt các tỉnh biên giới phía Bắc Việt Nam,
với mục đích “dạy cho Việt Nam một bài học”. Cuộc chiến kéo dài hơn một tháng
và gây tổn thất nặng nề cho cả hai bên, trước khi Bắc Kinh tuyên bố rút quân
vào ngày 16/3/1979 sau khi Chủ tịch Tôn Đức Thắng ký lệnh cho Tổng động viên
toàn quốc. Theo các nguồn thông tin, thương vong của quân đội Việt Nam dao động
từ khoảng 10.000 đến 50.000 người, trong khi thương vong của quân Trung Quốc
được ước tính từ 20.000 đến 62.500 người. Nhiều cơ sở hạ tầng, như trường học,
bệnh viện và nông trại, ở các tỉnh biên giới Việt Nam cũng bị tàn phá nặng nề
(25).
Nếu
quan hệ Việt–Mỹ được bình thường hóa dưới thời Tổng thống Carter, Washington có
thể đã góp phần ngăn chặn cuộc xâm lược năm 1979 của Trung Quốc (26). Tuy
nhiên, do mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ vẫn trong trạng thái đối đầu, Mỹ
không chỉ không lên án mà còn có những hành động hỗ trợ ngầm cho Bắc Kinh, bao
gồm việc cung cấp thông tin tình báo quân sự giúp Trung Quốc nắm bắt bố trí của
các đơn vị quân đội Liên Xô dọc biên giới, từ đó tập trung binh lực cần thiết
cho chiến trường với Việt Nam.
KẾT LUẬN
Việt
Nam bỏ lỡ cơ hội bình thường hóa quan hệ với Mỹ sau Chiến tranh Việt Nam không
chỉ cho thấy sự cứng nhắc trong chính sách đối ngoại mà còn phản ánh rõ sự chi
phối của ý thức hệ giáo điều và các định kiến lịch sử. Trong khi bối cảnh quốc
tế sau Chiến tranh Lạnh có nhiều chuyển biến tích cực, Việt Nam vẫn mắc kẹt
trong tư duy đối đầu, làm mất đi những cơ hội chiến lược để phục hồi kinh tế và
hội nhập quốc tế một cách toàn diện.
Sau
chiến tranh, đất nước đối mặt với vô số thách thức về kinh tế, xã hội và chính
trị – từ cơ sở hạ tầng bị tàn phá đến đời sống nhân dân gặp khó khăn trong một
môi trường đầy biến động.
Trong
hoàn cảnh đó, thiết lập mối quan hệ với các cường quốc, đặc biệt là Mỹ, đã có
thể tạo động lực quan trọng giúp khôi phục và phát triển đất nước. Tuy nhiên,
những định kiến còn sót lại từ quá khứ cùng với tư duy ý thức hệ khép kín đã
khiến Việt Nam chần chừ trong việc điều chỉnh chính sách, từ đó bỏ lỡ nhiều cơ
hội hợp tác quý báu.
Hơn
nữa, nỗi lo mất ổn định chính trị và suy giảm quyền lực của Đảng cộng sản đã
khiến việc tiếp cận Mỹ được nhìn nhận như một mối đe dọa thay vì là một cơ hội.
Sự thiếu linh hoạt trong tư duy đối ngoại đã khiến Việt Nam tự giới hạn mình,
bất chấp sự sẵn sàng của Mỹ và các nước phương Tây trong việc mở cửa hợp tác nhằm
thúc đẩy phát triển kinh tế.
Cuối
cùng, sau hai thập niên chật vật với những khó khăn do sự cô lập, vào ngày
12/7/1995, Việt Nam đã chính thức bình thường hóa quan hệ với Mỹ (27) – bước
ngoặt quan trọng mở ra cánh cửa hội nhập toàn cầu. Đến ngày 11/9/2023, quan hệ
Việt – Mỹ được nâng cao lên tầm Đối tác chiến lược toàn diện (28), khẳng định
rằng dù chậm trễ, Việt Nam cuối cùng đã điều chỉnh chính sách đối ngoại để
thích ứng với xu thế toàn cầu và tận dụng được những lợi ích thiết thực cho sự
phát triển đất nước.
Như
vậy, bài học quá khứ đã chỉ ra rằng, để không lặp lại những sai lầm, Việt Nam
cần xây dựng một tư duy đối ngoại cởi mở, linh hoạt và thực dụng, tập trung vào
lợi ích quốc gia lâu dài. Bình thường hóa quan hệ với Mỹ không chỉ là dấu mốc
quan trọng trong quá trình hàn gắn vết thương chiến tranh mà còn là chìa khóa
mở ra kỷ nguyên hội nhập và phát triển bền vững trong thế kỷ 21.
C.H.H.V
Garden Grove, California, Hoa Kỳ
CHÚ THÍCH
1.
Diễn văn tại Lễ kỷ
niệm 85 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng,
Nhân dân.
2.
Sự giúp đỡ của
Liên Xô đối với Việt Nam trên lĩnh vực quân sự từ năm 1945 đến năm 1975,
Lý luận chính trị, 18/03/2020.
3.
Bài phát biểu của
Tổng bí thư Lê Duẩn về Trung Quốc năm 1979, lichsuvn.net, 20/5/2021.
4.
Hiến pháp năm 1980,
Báo điện tử Đảng cộng sản Việt Nam.
5.
Nghị quyết của Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, Báo điện tử Đảng cộng
sản Việt Nam, 24/9/2015.
6.
Vài nét về quan hệ
Việt Nam – Liên Xô từ năm 1975 đến năm 1990, Tạp chí Khoa học ĐHSP
TP.HCM Số 13 năm 2008.
7.
Liên Xô đã giúp
Việt Nam cho đến khi “lực kiệt” như thế nào? Infonet,
25/03/2016.
8.
Việt Nam Liên Xô 30 năm quan hệ (1950-1980), Bộ Ngoại
giao CHXHCN Việt Nam-Bộ Ngoại giao LBCHXHCN Xô-viết, Nxb Ngoại giao, Hà Nội-Nxb
Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1983.
9.
Cuộc chiến đấu bảo
vệ biên giới phía Bắc: Sự kiện không chỉ diễn ra năm 1979, Phạm Minh
Thế, Vietnamnet, 15/02/2024.
10.
Giải mật sự giúp
đỡ của Liên Xô với Việt Nam năm 1979, Tri thức & Cuộc sống,
05/03/2013.
11.
20 năm quan hệ
Việt – Mỹ, chuyện bây giờ mới kể, Quốc Việt, Tuổi trẻ, 04/07/2015.
12.
Năm 1991, thu nhập bình quân đầu người (GDP per capita)
của Việt Nam thấp nhất trong các nước Đông Nam Á, ở mức 120-150 USD/năm, so với
Campuchia (~200 USD), Lào (~250 USD), Myanmar (~250 USD), Indonesia (~750 USD),
Philippines (~850 USD), Thái Lan (~1.800 USD), Malaysia (~2.500 USD) và
Singapore (~14.000 USD).
13.
Vietnamese Foreign
Policy in Transition, Carlyle A. Thayer and Ramses Amer, Institute
of Southeast Asian Studies, ISEAS – Yusof Ishak Institute, 1999.
14.
Hồi ký Trần Quang
Cơ, Diễn đàn
15.
Hồi ký Trần Quang
Cơ, Diễn đàn
16.
Woodock Unit on
MIAs to Leave Today for Vietnam, Laos, Washington Post, 12/3/1977.
17.
Jimmy Carter –
1976 Democratic National Convention Acceptance Address, American
Rhetoric.
18.
Vietnam and the
presidency – Interview with Jimmy Carter, Caroline Kennedy, John F.
Kennedy Presidential Library and Museum, 11/3/2006.
19.
Các Cuộc Thương
Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi, NXB Công an
nhân dân
20.
Hồi ký Trần Quang
Cơ, Diễn đàn.
21.
Các Cuộc Thương
Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris, Lưu Văn Lợi, NXB Công an
nhân dân 2002.
22.
Mỹ không thực hiện
cam kết hỗ trợ tái thiết Việt Nam sau chiến tranh: Bội ước thiết kế sẵn,
Cù Huy Hà Vũ, Nghiên cứu lịch sử, 13/1/2025.
23.
Hệ quả chiến lược
Brzezinski đối với VN, Lê Quỳnh, BBC Việt ngữ.
24.
Hồi ký Trần Quang
Cơ, Diễn đàn
25.
Chiến tranh biên
giới Việt – Trung 1979, Wikipedia.
26.
Trung Quốc đã
không thể xâm lược Việt Nam năm 1979 nếu…, Cù Huy Hà Vũ, VOA Tiếng
Việt, 5/3/2019. Could Vietnam Have
Avoided the 1979 War With China?, The Diplomat, Cù Huy Hà Vũ,
13/3/2019.
27.
Tuyên bố của Thủ
tướng Võ Văn Kiệt về việc Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton quyết định bình thường
hóa quan hệ với Việt Nam (12/7/1995), Nhân vật – Sự kiện,
28.
Tổng thống Hoa Kỳ
Joe Biden và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tuyên bố nâng tầm quan hệ Hoa Kỳ-Việt
Nam lên Đối tác Chiến lược Toàn diện, Đại sứ quán và Tổng lãnh sự
quán Hoa Kỳ tại Việt Nam, 11/9/2023.
No comments:
Post a Comment