Sunday, January 14, 2024

Uy Ban Doan Ket

 

Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo:
công cụ của Đảng Cộng Sản

Bài 1: https://vietnamthoibao.org/vntb-uy-ban-doan-ket-cong-giao-cong-cu-cua-dang-cong-san-bai-1/
Bài 2: https://vietnamthoibao.org/vntb-uy-ban-doan-ket-cong-giao-cong-cu-dan-ap-cua-dcsvn-bai-2/
Bài 3: https://vietnamthoibao.org/vntb-uy-ban-doan-ket-cong-giao-cong-cu-dan-ap-cua-dcsvn-ky-3/
Bài 4: https://vietnamthoibao.org/vntb-uy-ban-doan-ket-cong-giao-cong-cu-dan-ap-cua-dcsvn-bai-4/


V
VNTB – Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo: công cụ của Đảng Cộng Sản (bài 1)

Phan Nhân Quyền

(VNTB) – Chia để trị

Bài 1: Lý do và mục đích sự hình thành tổ chức bán chính trị và kế hoạch của ĐCSVN

Qua loạt bài viết này về Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, UBĐKCG, một tổ chức được ĐCSVN thành lập để xâm nhập, kiểm soát, tha hóa và đàn áp Công Giáo, tôi sẽ nói về những hoạt động trực tiếp hay gián tiếp, vô tình hay cố ý, uỷ ban này tiếp tay ĐCSVN phá hoại giáo hội Công Giáo Việt Nam (GHCGVN).

Tôn giáo là một hệ thống các quan điểm, giá trị, và thực hành liên quan đến mối quan hệ giữa con người và các thực thể thần linh, thiên nhiên, v.v., mà tín đồ tin rằng tồn tại. Tôn giáo thường bao gồm tín ngưỡng, lễ nghi, cầu nguyện, kinh thánh, và các điều răn dạy. Nó có thể được thực hành như một cách để tìm kiếm một hiện hữu cho đời sau, after-life, tìm ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống, để nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa, Đấng Tối Cao hoặc để tạo ra một nền tảng giá trị đạo đức, tư duy để hướng dẫn các hành động của con người.

Tôn giáo đối nghịch với cộng sản duy vật, vô thần tự bản chất. Tôn giáo và chủ nghĩa vô thần là hai quan niệm đối lập nhau về mối quan hệ giữa con người và thực thể tôn giáo, cách tiếp cận cuộc sống và ý nghĩa của nó.

Cộng sản luôn coi Tôn giáo cạnh tranh quyền lực với nó nhiều lĩnh vực nhất là phương diện tập hợp dân chúng, giáo dân. Ở các địa phương nhà cầm quyền CS cũng  cạnh tranh với tôn giáo, «tại sao ông cha nhà thờ nói gì dân cũng nghe. Cần bao nhiêu tiền cũng có giáo dân vui vẻ đóng góp. Đảng và nhà nước thì rất khó mà vận động được như thế…». Như thế tôn giáo nhân rộng sự đoàn kết trong giáo hội và lan rộng (và có thể trở thành một lực lượng đối kháng với Đảng) trong lúc cộng sản thực hành kiểu «chia để trị», chia rẽ cá nhân với cá nhân, giữa các bộ phận trong một tôn giáo và các tôn giáo với nhau.

Chủ nghĩa cộng sản thường tập trung vào các giá trị và lý tưởng chủ nghĩa nhân văn và xã hội chủ nghĩa, trong đó con người được đặt ở trung tâm của mọi hoạt động và quyết định xã hội. Các nhà lãnh đạo cộng sản cũng có thể sử dụng các lý thuyết vô thần để bác bỏ các tôn giáo và truyền bá các giá trị vô thần như là một phần của quyền lực và kiểm soát xã hội.

Cũng như tất cả tất cả các đảng cs quốc tế khi cướp được chính quyền, việc đầu tiên là kiểm soát, đàn áp và tiêu diệt tôn giáo, kẻ thù số một của chủ nghĩa vô thần CS. Tôn giáo hướng thiện, tôn trọng nhân quyền, bảo vệ nhân phẩm của tín đồ nói riêng và toàn nhân loại nói chung. Tôn giáo thực chất có tính phổ quát toàn cầu, dậy tín đồ kính trọng và gìn giữ lịch sử dân tộc, yêu Nước và đùm bọc, tương trợ lẫn nhau giữa con người và con người. Hơn thế nữa, tôn giáo luôn đề cao phẩm giá con người, xiến dương công lý và kêu gọi hòa bình. Cộng sản luôn đề cao hận thù và đấu tranh giai cấp

Sau khi cướp được chính quyền 19/08/1945, tuy tự che dấu là cộng sản, chư hầu của Cộng sản Tàu (TC), nhưng CSVN đã bắt đầu thanh trừng các tôn giáo. Nói riêng về đối với đạo công giáo, họ trắng trợn tịch thu, phá nhà thờ, bắt bớ, giết hại LM và giáo dân (GD) hoặc ép bỏ đạo.

Sau hiệp định Geneva chia đôi đất nước Việt Nam, ĐCSVN cai trị hoàn toàn miền Bắc Việt Nam, họ bắt đầu kế hoạch cụ thể đối phó với GHCGVN. Họ tập hợp một số LM, tu sĩ đã bị tha hóa cầm đầu là LM Vũ Xuân Kỷ lập nên tổ chức Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo (UBLLCG tiền thân của UBĐKCG)

Linh Mục Vũ Xuân Kỷ sinh ngày 25-12-1886 tại Khánh Thôn, Mỹ Thuận, Mỹ Lộc, tỉnh Nam Hà, thụ phong linh mục ngày 19-12-1921.

Tháng 8-1945, ông trực tiếp tham gia phong trào cứu quốc. Năm 1946, vào Ban Chấp Ủy tỉnh hội Liên Việt, Nam Định. Năm 1949, là Phó Hội Trưởng Hội Liên Việt Liên Khu 3. Năm 1950, ông đứng ra triệu tập Hội Nghị Công Giáo Kháng Chiến Liên Khu 3. Hội nghị này thành lập Ủy Ban Liên Lạc Kháng Chiến Liên Khu 3, ông làm cố vấn và là chủ nhiệm báo Sáng Danh Chúa. Sau đó ông lần lượt làm ủy viên Ủy Ban Liên Việt, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới của Việt Nam. Năm 1955, trong Đại Hội Công Giáo Toàn Quốc, ông được bầu Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Toàn Quốc những người công giáo Việt Nam yêu tổ quốc, yêu hòa bình. Tháng 9-1955 làm Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Sau đó làm đại biểu quốc hội. Ông được trao huân chương Độc Lập hạng Ba, huân chương Kháng Chiến hạng Nhất. (1)

Trong thư đề ngày 12/3/1955, một ngày sau khi ủy ban này được thành lập, ký chung với các Giám mục khác, cố Giám Mục Phaolo Lê Đắc Trọng, nguyên GM phụ tá TGP Hà Nội đã lên tiếng cảnh giác các Kitô hữu về mối nguy hại mà Ủy ban Liên Lạc những người Công Giáo Yêu Tổ quốc, yêu Hòa bình ( UBLLCG)  sẽ gây ra rằng, «Phong trào Những người Công giáo Kính Chúa Yêu Tổ Quốc Và Hòa Bình, được một số linh mục hoàn toàn bên ngoài hàng giáo phẩm phát động tại Hà Nội, là một mối nguy hiểm cho sự thống nhất của Giáo hội tại Việt Nam. Hàng giáo phẩm không nhìn nhận phong trào này có liên quan đến các linh mục và tín hữu» (2) Trong thực tế, cố Giám Mục Phaolo Lê Đắc Trọng đã nhiều lần lên tiếng ngăn cấm các linh mục tham gia ủy ban này bằng việc rút phép thông công (3) những linh mục theo Ủy ban Liên lạc Công giáo. Có lẽ vì thế mà cho tới tận hôm nay, giáo phận Hà Nội luôn tự hào là giáo phận không có bất cứ linh mục hay tu sĩ nào tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản.

Giáo Hội Miền Bắc bị đày ải, cực nhọc nhất với UBLLCG.  Nhóm này trong nhiều năm là công cụ để phá đạo, bách hại đạo, giống kiểu Julien Apostats (4): lấy đạo chống đạo, lấy người có đạo đập người có đạo, lấy con cái chống lại cha mẹ.

Người ta bảo, Nhà nước tôn trọng tôn giáo, những xích mích là do nội bộ các anh. Thế nhưng họ lại áp đặt rằng ai không theo UBLLCG là không theo chế độ, chống lại nhóm đó là chống lại nhà nước, bị chụp mũ là đội lốt tôn giáo, phản quốc, chống lại những người yêu nước. Người Công giáo chịu bao khốn khó, tù đầy cũng là do nhóm này. Cũng may, cộng sản chỉ chọn được những tu sĩ, giáo dân kém đạo đức, ham quyền và lợi lãnh đạo UBLLCG, nên ít người công giáo chân chính theo; nhưng họ lại được đảng cho chút quyền, mà họ dốt nát, nên càng dữ tợn, người ta vừa sợ, vừa xa lánh bộ mặt của họ.(5)

Tại miền nam Việt Nam (MNVN) dưới thời Việt Nam Cộng Hoà (VNCH)  một chính phủ tự do dân cử. Dù  chưa chiếm và cai trị Miền Nam, nhưng để hỗ trợ cái «chính phủ ma» được gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam( MTGPMNVN) trong kế hoạch nhuộm đỏ Đông Nam Á hay tiến chiếm MNVN, tháng 4 /1961 một tổ chức tương tự Ủy ban Liên lạc Công và sau đó gia nhập MTGPMNVN,  với mưu đồ lâu dài với GHCGVN tại miền nam

Thư chung 1960 của các giám mục miền Nam tiếp tục nói về vấn đề «Cộng sản vô thần» để giúp người tín hữu «thấu hiểu nó nguy hại và nham hiểm đến mức nào trong việc tiêu diệt đức tin của chúng ta». Sau khi khẳng định giữa học thuyết Công giáo và Cộng sản «không thể đi đôi với nhau», Thư chung kết luận: «Muốn cho Đạo thánh được nguyên vẹn, người Công giáo phải phủ nhận lý thuyết Cộng sản và những áp dụng của nó đến tận cùng». Để củng cố cho lập luận ở trên, Thư chung 1960 trích dẫn nhiều khoản của Thư chung 1951 (6)

 Từ cái gọi là HNCGYN Xuất hiện «Phong trào Công giáo» chống chiến tranh và kêu gọi hòa bình. Họ không chấp nhận chống Cộng sản bằng bất cứ giá nào. Nổi bật nhất là những người mệnh danh «Công giáo tiến bộ», gồm cả linh mục lẫn giáo dân, thuộc nhiều phong trào và nhóm khác nhau. Một số sự kiện nổi bật nhất của «Phong trào» này là: Lá thư của «Một số linh mục Việt Nam trước vấn đề hòa bình của dân tộc»( phát hành 01.01.1966); việc thành lập «Phong trào Công giáo xây dựng hòa bình» (24.11.1970); Thỉnh nguyện thư gửi Giáo quyền của 10 linh mục Việt Nam và 2 linh mục người Mỹ (1.10.1971) khởi đầu việc chống lại  chính quyền VNCH và Các GM miền nam VIệt Nam! yêu cầu xét lại tinh thần Thư chung 1951.

Nhìn lại lịch sử đề thấy âm mưu thâm độc của ĐCSVN đã tiến hành kế hoạch tiêu diệt Công giáo từ khi họ cầm quyền như thế nào.

________________

Tham khảo

(1) http://baochi.nlv.gov.vn/baochi/cgi-bin/baochi?a=d&d=Qik19720905.2.26&srpos=&dliv=none&e=——-vi-20–1–img-txIN-

(2) (Vietnamese Studies số 53, tr. 200).

(3) Rút phép thông công là kiểu nói bình dân để nói về những vạ được bàn tới trong Giáo luật. Trong bộ luật này có nhiều vạ dành riêng cho từng giới. Nặng hơn cả là vạ rút phép thông công. Theo từ chuyên môn của Giáo luật thì vạ này là vạ tuyệt thông. Tuyệt thông là hình phạt Hội thánh dành cho tín hữu nào lỗi phạm trầm trọng những điều ghi trong Giáo luật. Người bị vạ tuyệt thông không được hòa nhập cùng Hội thánh, không được xưng tội rước lễ, tham dự các lễ nghi và hưởng nhờ các ơn phúc thiêng liêng Hội thánh dành cho con cái mình và nếu là linh mục thì bị huyền chức và bị thải hồi về bậc giáo dân trong những lỗi phạm quá tai tiếng.

1 trong 7 vạ theo các chỉ thị của Công đồng Va-ti-ca-nô II bị rút phép thông công là Bỏ đạo, rối đạo, ly khai khỏi Giáo hội Rô-ma.

(4) Julian (sinh năm 332), cháu trai của hoàng đế Kitô giáo đầu tiên, Constantine , được đào tạo như một Cơ đốc nhân, nhưng ông được gọi là tông đồ vì khi ông trở thành hoàng đế (AD 360), ông phản đối Kitô giáo. Trong Demise của Paganism , James J. O’Donnell cho thấy lập trường đặc biệt kịch liệt của hoàng đế chống lại Kitô giáo (và hỗ trợ cho các tôn giáo độc thần khác, Do Thái giáo) bắt nguồn từ giáo dục Kitô giáo của mình.

(5)  Trích hồi ký của  cố GM Phaolo Lê Đắc Trọng chương V * https://saigonecho.org/main/tintuc/binhluan/13163-hi-ky-c-gm-le-c-trng-hin-tinh-ton-giao-sau-nm-1975.html

(6) https://luongtamconggiao.wordpress.com/2010/11/03/th%C6%B0-chung-cac-gm-dong-d%C6%B0%C6%A1ng-1951-va-th%C6%B0-chung-cac-gm-mi%E1%BB%81n-nam-1960/ (Các giám mục miền Nam, Thư chung, ngày 2.3.1960.)

VNTB – Ủy ban Đoàn kết Công giáo: công cụ đàn áp của ĐCSVN (bài 2)

Phan Nhân Quyền

(VNTB) – Sau bức bình phong là Uỷ Ban Liên Lạc giống như Liên Xô và các nước cộng sản, họ truyền cho nhau cách thức tiêu diệt tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.

Bài 2 Những tác hại của Ủy ban Liên lạc Công giáo trên thân thể giáo hội Công Giáo miền Bắc.

Như bài 1 đã nói qua, các quốc gia cộng sản nắm quyền cai trị luôn tìm mọi cách tiêu diệt tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo (CG), cách thức đàn áp, tiêu diệt tùy theo bối cảnh chính trị và thế mạnh yếu của đảng CS lúc đó. Biết rằng CG là một giáo hội hiệp thông toàn cầu, hầu hết tín đồ Công Giáo Việt Nam (CGVN) được thấm nhuần đức tin kiên trung được tôi luyện qua thời bách đạo dưới triều Nguyễn, hàng trăm ngàn các vị thà chết để bảo vệ đức tin, làm chứng cho đạo Chúa Ki Tô. Sau gần một trăm năm nô lệ giặc Pháp. Người dân Việt Nam khao khát độc lập tự do, lòng yêu nước dâng trào, sẵn sàng hy sinh cho cho tổ quốc, gia đình, con cháu thoát kiếp nô lệ thực dân, CSVN bề ngoài mềm dẻo hơn với CG để che đậy mưu đồ từng bước tiêu diệt công giáo không kém phần sắt máu núp bóng mặt trận Việt Minh, lợi dụng chiêu bài giải phóng, dành độc lâp dân tộc chiêu dụ được một số ít LM, tu sĩ và giáo dân nhẹ dạ, không biết và không hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản; sau các người này có biết cũng đã bị tha hóa bởi danh, lợi  và dục vọng quá đà không còn quay lại được nữa.

UỶ BAN LIÊN LẠC NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO YÊU TỔ QUỐC YÊU HOÀ BÌNH gọi tắt là Uỷ Ban Liên Lạc (UBLL) được hình thành sau các phiên họp 3 ngày từ 8-11 tháng 3 năm 1955, người đứng đầu là linh mục Vũ Xuân Kỷ, thuộc địa phận Hà Nội; ông này sau bị Đức Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê treo chén (*). Cùng trong UBLL này với cha Kỷ là linh mục Nguyễn Tất Tiên, cũng thuộc địa phận Hà Nội, ông cũng bị Đức Cha Khuê treo chén, thêm các linh mục miền Nam tập kết ra Bắc như Hồ Thành Biên và Võ Thành Trinh.

 Uỷ ban Liên lạc đặt trụ sở tại dòng Đa Minh (Lyon), đường Hùng Vương HN. UBLL tỉnh Nam Định gồm các linh mục Nguyễn Thế Vịnh và Nguyễn Tất Tiên. Trong thực tế Uỷ ban này chỉ hoạt động hạn chế trong hai địa phận Hà Nội và Hải Phòng, có nơi bị giáo dân tẩy chay công khai. Cha Võ Thành Trinh từ miền Nam ra, trấn nhậm giáo xứ Hòn Gai, ngoài tầm kiểm soát của Giám mục, hành lễ vẫn có giáo dân tham dự vì hiếm hoi linh mục (Đức Cha Giuse Trương Cao Đại di cư vào Nam, kéo theo gần hết linh mục đoàn của địa phận Hải Phòng, chỉ còn lại 8 cha khi Đức Cha Phêrô Khuất Văn Tạo về nhận địa phận (1) 

Cũng như đàn anh Trung Cộng, CSVN sao y chính sách cai trị của Trung Cộng đề ra nô lệ hóa nhân dân, củng cố độc tài toàn trị, huy động toàn bô hệ thống chính quyền vào việc tiêu diệt tha hóa CG. Sau bức bình phong là UBLL giống như Liên Xô và các nước cộng sản, họ truyền cho nhau cách thức tiêu diệt tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.

Thành tích đầu tiên của UBLL, tiếp tay đảng mở đầu đàn áp Công Giáo miền Bắc:

Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước Noel, trong khi trang trí nhà thờ Chính tòa chuẩn đón lễ, thì Ủy ban Liên lạc Công giáo, tức là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện. Linh Mục La San Nguyễn Văn Vinh, chính xứ Nhà thờ chính tòa Hà nội kịch liệt phản đối. Hậu quả, Cha Vinh cùng với một nhiều  anh chị em trong ca đoàn nhà thờ, có một số em chỉ 15, 16 tuổi bị bắt đi tù.

Cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội qua tay sai UBLL thực hiện. LM Nguyễn Văn Vinh là người đầu tiên bị UBLL đưa vào tù và chết trong trại Cổng Trời.

 Ông Kiều Duy Vĩnh nhân chứng sống sót trong trại giam Cổng Trời, sau kể lại (2):

Bắt cha chính Vinh xong họ bắt một số ca viên. Nó thành một cái môtif tức là cái mẫu chung của những người bị bắt”. Bắt vào đây trước tiên vì những cái gì? và cuối cùng là chết thế nào. Cha chính Vinh bị bắt và cuối cùng ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho đến chết thì thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha chính Vinh là như thế."

Cổng Trời và Gulag

Trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù nổi tiếng thế giới, văn hào Aleksander I. Solzhenitsyn kể lại tỷ mỷ chế độ Liên Xô lúc ấy đã tiêu diệt đạo công giáo, nếu so sánh tình trạng bách hại tôn giáo dưới thời Stalin và cộng sản Việt Nam thì người ta sẽ ngạc nhiên vì cách thức của chúng giống nhau như hai giọt nước. Solzhenitsyn viết:

Nguyên một hôm các viên chức địa phương đột nhập Tu viện Ivangorod, cho đòi Cha Bề trên Iên. Ông này nổi danh trong Giáo hội Nga, nguyên là sĩ quan kỵ binh trong đội Ngự lâm quân Nga hoàng, được ơn trên kêu gọi nên bỏ địa vị, phân phát hết của cải cho dân nghèo rồi xin vô nhà tu kín. Họ bảo, «Mời quá bộ ra đây có chút việc»  và yêu cầu Cha Bề trên giao nạp cho họ bộ hài cốt của Thánh tử đạo Savva. Mấy người Nhà nước vô giáo đường vẫn phì phèo hút thuốc, ngay cả trước bàn thờ Chúa. Dĩ nhiên họ vẫn đội nón và một ông còn nhấc xương sọ của ông thánh lên, thử nhổ bãi nước bọt để coi Thánh có làm gì nổi. Họ còn xúc phạm nhiều nữa khiến các tu sĩ phải kéo chuông báo động. Giáo dân đổ xô tới và sau một hồi xung sát có 1 hay 2 ông thiệt mạng."

Trong nhiều năm trời, các chủng viện khắp miền Bắc Việt Nam bị đàn áp một cách có hệ thống.

Linh mục, tu sĩ cũng như chủng sinh và giáo dân đều là nạn nhân của chính sách này.(3)

Tịch thu tòa Khâm Sứ, tất cả cơ sở, thánh đường Công Giáo, cầm tù các GM, LM nào không quy thuận chúng.

Cũng như đàn anh đảng cộng sản Trung Hoa(TC) sau khi trục xuất Khâm Sứ Tòa Thánh 1951, Vụ Tôn Giáo (thuộc Công An TC) Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lập ra Hội giáo Hữu Công Giáo Trung Hoa Yêu Nước, viết tắt là CPA (theo tiếng Anh). Dĩ nhiên là do Đảng TC quản lý với nguyên tắc Tam Tự: Tự Trị , Tự Quản và Tự Phong và hoàn toàn do chính quyền TC điều hành và sai khiến, tách ra khỏi Tòa Thánh Vatican.

Sau khi đơn phương ký hiệp định Geneve chia đôi đất nước, chiếm giữ hoàn toàn miền bắc, và một phần miền trung Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở ra, CSVN không dám hấp tấp, tạo ra quá căng thẳng dẫn đến cắt đứt quan hệ với TT Vatican. Sau Hiệp định Genève 1954, Khâm sứ Dooley vẫn tiếp tục giữ cương vị đại diện chính thức của Tòa Thánh tại Hà Nội đến tận năm 1959. Khâm sứ Dooley chấm dứt nhiệm vụ tháng 3 năm 1959 do vấn đề sức khỏe. Linh mục Driscoll – thư ký Khâm sứ – tạm thời thay thế chức năng đại diện của Khâm sứ Dooley cho tới ngày 15 tháng 9 năm 1959 thì bị phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trục xuất. Trong thời gian từ Khâm sứ Dooley ở Hà Nội, Tòa thánh vẫn không công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (4)

Âm mưu của cộng sản Bắc Việt nhằm cộng hóa GH Công Giáo hay tách CGVN ra khỏi TT Vatican, không vâng phục vị cha chung kế vị Thánh Phêrô -Ly Giáo- tạo ra một giáo hội Công Giáo trá hình là con rối của đảng csVN, phục vụ chính sách độc tài toàn trị và che dậy tội ác, góp sức vào công cuộc nô lệ hóa người dân Việt Nam đã không thành công bởi hàng giáo phẩm, các Giám Mục các giáo phận kiên trung với đức tin, vâng phục ĐTC một cách tuyệt đối. Không một Giám Mục nào ủng hộ UBLL. mà còn kiên quyết ngăn cấm các LM tham gia tổ chức này. LM nào không vâng lời thì bị vạ tuyệt thông đương nhiên. Tòa thánh thời đó cũng dứt khoát bài trừ đảng cộng sản. Đức Thánh Cha đã ban hành tông thư Divini Redemptoris (Của Đấng Cứu Thế Thần Linh). Vào ngày 15-7-1948, báo Obsservatore Romano, cơ quan ngôn luận chính thức của Toà Thánh đã đăng tải một Sắc Luật chống Cộng, nhằm công bố vạ tuyệt thông tất cả những ai «tuyên truyền các học thuyết Cộng Sản nhằm cổ võ thuyết duy vật và chống báng Kitô giáo». Vào thời điểm đó, Sắc Luật có chủ đích ra vạ tuyệt thông cho các đảng viên Đảng CS Ý.

Đức Giáo Hoàng Piô để lại lời phê phán nghiêm khắc nhất của ngài đối với «đại dịch Cộng Sản». Ngài mô tả nó bằng những dòng và những đoạn như: «cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng nghỉ và cuộc tận diệt tuyệt đối quyền tư hữu»; «sử dụng mỗi một và mọi phương tiện, cả các phương tiện bạo động nhất»; «sự độc ác và bất nhân của nó»; «cuộc sát hại và tiêu diệt kinh hoàng»; «nó công khai thù nghịch đối với Giáo Hội Thánh Thiện và với chính Thiên Chúa»; «đặc điểm vô đạo đức và vô đạo lý của chủ nghĩa cộng sản»; «dùng bạo lực và sát hại, nó tìm cách tiêu diệt cả xã hội»; «dọn đường cho việc lật đổ và tiêu diệt xã hội»(5)

Giáo dân Miền Bắc lúc đó nhất mực âm thầm vâng theo lời dạy của các GM, tẩy chay triệt để các LM gia nhập UBLL. với bốn không, không đi nhà thờ, không nhận phép bí tích (từ LM UBLL), không ủng hộ, không tham gia BHG (giúp xứ) để chèo chống con thuyền Giáo Hội Miền Bắc giữa cơn phong ba bão táp. LM Nguyễn Ngọc Nam Phong viết, «GHCG Miền Bắc thật sự may mắn còn có được những vị mục tử mạnh mẽ, can trường như Cha Chính Nguyễn Văn Vinh, Cha Thông, Cha Oánh, Đức cố Hồng Y Trịnh Văn Căn, Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Cha Nhân (Hà Nội), Cha Hân (Bùi Chu), Cha Hy (Thái Bình), Cha Giuse Vũ Ngọc Bích, Thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn Dòng Chúa Cứu Thế… Nhiều người trong số các vị ấy đã phải tù đày và nhiều vị đã chết rũ tù, mất xác nơi rừng thiêng nước độc».

Chúng tôi xin ghi thêm một linh mục can trường khác nữa vào «Sổ Đoạn Trường» các vị giáo sĩ bị Cộng Sản Hà Nội bách hại trong thời kỳ này. Đó là Đức Ông Phaolô Tịnh Nguyễn Quang Thiều, linh mục Phát Diệm, biệt danh là «Cụ Sáu Việt Minh». «

Bên cạnh những vị mục tử can trường còn phải kể tới hàng trăm, hàng ngàn các ông chánh phó trương, các ông trùm họ, các ông chánh hội ca vịnh, hội thanh niên…và các giáo dân nhiệt thành đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt giữ, tù tội vì muốn trung thành với đức tin và vì lòng yêu mến Giáo Hội. Họ là những người tù không án, tự nhận mình là ‘thanh ngang của cây thập giá Chúa’ mà Tuân Nguyễn đã kể lại cho Phùng Quán với tất cả sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ (x. Phùng Quán, Ba phút Sự thật, tr.175-184). Họ là gần 100 tù nhân được Kiều Duy Vĩnh cung kính gọi là ‘các anh hùng tử đạo’ khi bị giam chung tại trại giam Cổng trời Cán Tỷ (3). Họ cũng có thể là Thầy Cân, là Hóa, những anh em Công Giáo được nhà văn Bùi Ngọc Tấn miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 với tình cảm quý mến dạt dào, vì tất cả đã sống kiên cường đúng mực, tốt với bạn tù. Có thể nói, Giáo hội Công giáo Miền Bắc không bị «

cộng sản hóa» vì đã được Chúa ban cho những vị mục tử nhân lành, những tín hữu nhiệt thành dám liều mình vì đức tin.(6)

_____________

Chú thích:

(*) Một linh mục bị vạ huyền chức (bị treo chén) là linh mục đó bị tước bỏ một phần hay toàn bộ các hoạt động thừa tác như một thành viên hàng giáo sĩ, và năng quyền của linh mục đó có thể bị giới hạn. Nói một cách đơn giản, linh mục đó không còn có thể thi hành chức vụ như một linh mục giáo xứ, không cử hành thánh lễ hay mặc lễ phục cách công khai. Mỗi trường hợp lại khác nhau, tùy thuộc vào lý do bị vạ huyền chức, và được nói trong thư của Giám mục gửi đến linh mục đó.

Giáo luật liên quan đến vấn đề này như sau:

Ðiều 1333: (1) Vạ huyền chức chỉ có thể chi phối giáo sĩ; người mắc vạ này bị cấm:

1. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền thánh chức;

2. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền cai trị;

3. thi hành tất cả hay vài quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với một chức vụ.

(2) Trong luật pháp hay mệnh lệnh có thể ấn định rằng, sau khi án văn tuyên kết hay tuyên bố, người bị huyền chức không thể ban hành hữu hiệu quyết định cai trị.

(3) Sự ngăn cấm chẳng bao giờ chi phối:

1. những chức vụ hay quyền cai trị nào không lệ thuộc vào quyền hành của Bề Trên thiết lập hình phạt;

2. quyền cư ngụ, nếu phạm nhân đã có chỗ ở chiếu theo chức vụ

3. quyền quản trị những tài sản gắn liền với chức vụ của người bị huyền chức, nếu là hình phạt tiền kết.

(4) Sự huyền chức nào ngăn cấm lãnh nhận lợi lộc, lương, hưu bổng, hay các thứ khác, thì cũng bao hàm nghĩa vụ phải hoàn lại mọi thứ đã lãnh nhận bất hợp pháp, cả khi vì ngay tình. https://gpbuichu.org/news/Phung-Vu/mot-linh-muc-bi-treo-chen-nghia-la-gi-5738.html

VNTB – Uỷ ban đoàn kết công giáo, công cụ đàn áp của ĐCSVN (kỳ 3)

Phan Nhân Quyền

Kỳ 3: Âm mưu và những phá hoại của UBLLCG dưới sự chỉ đạo của đảng CSVN tại Bắc Việt.

(VNTB) – Họ đã dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc cho có một số giáo dân và linh mục công khai làm Giuđa bán Chúa, bán anh em.

Mặt Trận Tổ Quốc sắp xếp một hội nghị trá hình (của những người CG yêu nước) bầu ra linh mục Vũ Xuân Kỷ làm chủ tịch, linh mục Hồ Thành Biên phó chủ tịch. Điều hành Ủy ban Liên lạc (thật ra là hoạt động dưới chỉ thị của đảng CSVN) có các linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh làm ủy viên. (Chính 3 linh mục này sẽ là những người Đảng Cộng sản đưa ra làm nòng cốt cho Ủy ban Đoàn kết ở miền Nam sau năm 1975). Ủy ban liên lạc bị cha Phạm Hân Quynh chỉ trích nặng nề. Do đó, cha Quynh đã bị bắt và bị đi tù trong 30 năm.

Tại giáo phận Hải Phòng dưới sự cai quàn của ĐC Phaolô Maria Khuất Văn Tạo, ngài cương quyết cắt các phép (Treo Chén) đối với LM Phạm Quang Phước là cha phó giáo xứ Nam An, Hải Phòng. Và sau này trở thành quản xứ sau khi Cha Già Đa Minh Lương ở Nam Am bị đấu tố cho đến chết đói trong tù.ĐC Phaolô Maria Khuất Văn Tạo cả quyết: “Ủy ban Liên lạc Công Giáo không do Công Giáo đứng ra thành lập mà là do Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đứng ra thành lập và trả lương cho các người tham gia. Những người như Ngô Tử Hạ (chủ tịch UBLL Hà Nội) không hề đại diện cho quyền lợi của người Công Giáo Việt Nam.»  Đảng CSVN xử dụng LM Phạm Quang Phước để lôi kéo, phát triển UBLL tại GP Hải Phòng, cũng như phân hóa giáo hội, và chống đối Chủ Chăn quyết liệt khi không thể khuynh loát ngài. LM Phước hậm hực tuyên bố: «Cha Chính mời tôi về cấm phòng, tôi vâng lời, nhưng thấy Đức Cha không thay đổi thái độ, cấm phòng gì lại lễ không được làm, tội không xưng. Ở đây cấm tôi làm lễ, tôi đi Hà Nội tha hồ bánh, tha hồ rượu, khối dầu thánh. Đối với Đức Cha, tôi không có gì, tôi chỉ ở trong Ủy ban Liên lạc Công Giáo thôi. Kinh thánh có câu: Con là thầy cả dòng Melchisedech cho đến đời đời. Ai cách được chức linh mục của tôi. Tôi vẫn là linh mục của địa phận Hải Phòng, của Hội thánh. Có lời khác rằng: Dù thầy cả có tội lỗi thế nào làm lễ cũng vẫn biến bánh rượu thành Mình Thánh Máu Thánh kia mà. Tôi có tội thì tôi chịu có ai phải chịu thay tôi đâu. Đức Cha có phải chịu đỡ tôi đâu. Tôi xưng tội hàng tháng, tôi mở miệng nói một tiếng sẽ có chán thầy cả giải tội cho, còn cha Mỹ rồi sẽ chết một mình không ai làm các phép cho đâu, mà tôi về Hải Dương làm lễ lại cấm tôi. Thánh Phaolô nói trước khi chịu lễ phải xét mình xem có tội gì đã, tôi xét mình chả thấy có tội gì mà, chả cờ bạc, rượu chè, trai gái gì kia mà. Đem truyện Lutero đọc, ám chỉ thằng Phước này đấy, nhưng thằng Phước này có rối đạo đâu. Tôi có dậy có 4 Đức Chúa Giời [Trời] đâu, nếu tôi có giảng Đức Chúa Giời 4 ngôi hẳn giáo hữu họ chẳng nghe theo tôi đâu». (1)

Trong lúc giáo phận Phát Diệm cũng khốn đốn bởi chính sách tôn giáo nhất là Công Giáo được nhà cầm quyền CSVN theo đuổi rập khuôn đảng CS Trung Hoa. Có những LM, tu sĩ giáo dân làm tay sai chúng trong tổ chức UBLL tiếp tay đánh phá , gieo bao đau thương cho những mục tử nhân lành cụ thể  như ĐC Phaolô Bùi Chu Tạo giám mục chính tòa tiên khởi GP Phát Diệm (1960-1998).

Cha Phêrô  Nguyễn Văn Khải, DCCT, kể rằng :

Năm 1989 lúc tôi rời Miền Bắc để vào Sài Gòn tu học thì Giáo phận Phát Diệm chính thức chỉ còn 9 cha: Trình-Sỹ-Thiều-Vọng-Tường-Quỳnh-Phúc-Hải-Lãm.

Đã ít thì chớ, lại không được tự do làm việc. Tôi nhớ lúc tôi ở nhà thì có cha Thiều và cha Phúc đang bị nhà nước quản chế thân thể. Các cha khác không bị quản chế thân thể thì cũng bị quản chế mục vụ: các ngài chỉ được làm lễ ở nhà thờ nơi mình cư trú, nếu đến làm lễ ở nhà thờ ở xã huyện khác phải có phép của nhà cầm quyền. Phép này xin được cũng rất nhiêu khê.

Bản thân ĐC Bùi Chu Tạo lúc đó cũng ở trong tình trạng bị quản chế không tuyên bố. Nhiều lần ngài nói với tôi rằng: «Cha bây giờ như bị giam lỏng ở Nhà Chung này rồi!»

Ngài chỉ được phép ở Tòa Giám Mục và làm lễ tại Nhà thờ Chính Tòa. Ngài không được đến các giáo xứ. Dù chỉ đi thăm cũng không được chứ đừng nói là đi làm lễ. Chính vì vậy, từ năm 1957 khi ngài rời Tam Châu để xuống Phát Diệm cho đến lúc tôi rời Miền Bắc năm 1989 chưa bao giờ ngài được trở lại giáo xứ Tam Châu quê hương ngài.

Cha cũng không quên thành tích của UBLL phá giáo hội, dâng đảng. Một số Linh mục và giáo dân gia nhập cái gọi là UBLLCG của đảng tích cực theo dõi và đánh phá giáo hội. Cộng sản còn tìm cách đánh phá Giáo Hội từ bên trong.

Nhà nước cộng sản đã dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc cho có một số giáo dân và linh mục công khai làm Giuđa bán Chúa, bán anh em. Đó là một số giáo dân làm tai sai cho cộng sản. Số này rất hung hăng. Ngay tại thôn quê tôi, tôi cũng thấy có 2 người, trong đó có một người còn kéo cả vợ con bỏ đạo và đến chết vẫn không sám hối. Trong số khoảng 30 chục cha còn lại của Giáo phận Phát Diệm đã có 2 cha đi theo cộng sản, gia nhập Ủy ban Liên lạc Công Giáo Yêu Nước, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản, tiền thân của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu Nước sau này, để chống phá Giáo Hội.

Đó là Cha Trinh và Cha Vịnh: Cha Vịnh từng làm Chủ tịch MTTQ Việt Nam. Đức Cha Bùi Chu Tạo đã treo chức hai cha này. Tuy nhiên với sự hậu thuẫn của nhà cầm quyền cộng sản, bất chấp lệnh cấm của Đức Cha, Cha Trinh đã tự ý chiếm nhà thờ Phúc Nhạc và Cha Vịnh đã tự ý chiếm nhà thờ Ninh Bình. Khi Nhà thờ Ninh Bình bị bỏ bom sập thì ngài về họ Chẹo dưới Ninh Bình. (2)

Tại Hà Nội LM Giuse Maria Trịnh Như Khuê được tòa thánh Vatican phong Giám mục Giám Quản Tông Tòa GP Hà Nội ngày 15/08/1950. Mặc dù theo nhận xét chung  thì Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê qui tụ được một số Linh mục trí thức như các Linh mục Đinh Lưu Nhân và Nguyễn Văn Vinh. Họ đều du học, có thể là bậc thầy của bốn LM sau này ở Sàigòn, mà nhiều người gọi tên là «tứ nhân bang». Họ có lý tưởng vững chắc, đạo hạnh, can đảm, hy sinh, tuân phục mặc dầu bị bách hại. Trong số bốn vị trên, LM Vinh chết trong tù ở trại Cổng Trời, LM Thông 27 năm tù, hai lần lên Cổng Trời, được thả ra và chết sau đó vài năm. LM Quynh và Oánh đều bị quản thúc trên 20 năm.

Khổ nạn chung của GHCGVN dưới sự bách hại của CSVN là UBLLCG như công cụ đàn áp (dùng LM, tu sĩ CG đễ đàn áp Công Giáo). Chính UBLLCG đã cố ý gây ra sự tiếm quyền tại nhà thờ chính tòa Hà Nội Noel 1958. Làm cớ cho nhà cầm quyền bỏ tù cha chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh và ngài đã chết rũ tù tại trại giam Cổng Trời.

Hà Nội đã chớm cái phong trào Liên Lạc Công Giáo (Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo hiện nay). Có ông Bưởi, ông Ngô Tử Hạ là những tiêu biểu Công Giáo trí thức tiến bộ. Ông Bưởi tự xưng là Trùm xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội, đứng đầu nhóm cấp tiến bình dân, và dĩ nhiên là hung hăng.

Ở Phương Tây người ta chỉ chú ý cái lễ đêm Noel, bởi đó sửa soạn cờ quạt, đèn sáng cho lễ đêm, dải sao lớn vv…Ở Việt Nam, thì các thành phố mới có vẻ rầm rộ vào lễ đêm. Ở Hà Nội, lễ đêm chỉ người ngoại quốc mới được vào nhà thờ. Người Việt Nam cố gắng dự lễ âm thầm ở sân trường Dũng Lạc.

Ngày 24.12.1958 chính quyền cho giăng cờ ở trước cửa nhà Nhà Thờ Lớn. Dĩ nhiên là cờ Hội Thánh và cờ Quốc Gia. Không bàn hỏi, thông báo cho ai trong nhà thờ biết, cứ tự động làm. Lúc đó người Công Giáo đề phòng các phong trào Công Giáo tự trị tách rời khỏi Vatican, như các nước cộng sản quen làm. Tự động đem cờ quạt đèn đến trang trí, không báo cho cha xứ, có nghĩa là chiếm nhà thờ. Mọi người nghĩ thế. Để phản ứng lại, cha xứ Nhà Thờ Lớn, cha Căn (sau này là Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn) cho kéo tất cả các chuông nhà thờ trong vòng một tiếng đồng hồ để báo động. Cờ dây đã được mắc, cha Vinh trong Tòa Giám Mục chạy ra. Ngài nóng tính, tự tay giật các dây cờ, trèo lên thang giật các băng cờ trước nhà thờ. Có người phản đối Cha nói việc lễ, tự do tín ngưỡng, ai làm gì thì làm. Cha Vinh bắt chéo hai tay ra đằng sau, nói tự do thế này. Nghĩa là tự do bị trói giật cánh khuỷu. Chuông nhà thờ cứ réo lên, cho đến khi dẹp hết cờ quạt, các băng khẩu hiệu. (3)

Nói đến thành tích tay sai của UBLLCG tại TGP Hà Nội thì không thể không kể đến Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Cha Phêrô Khải tiếp:

«

Sau khi Thầy Clemente Đạt bị bắt, cũng là thời kỳ khó khăn. Chỉ còn một mình, tôi bị cấm không được đi đâu ra khỏi Hà Nội. Xin thì cho, nhưng có người theo dõi. Dù là đi không xa. Đến  nhà thờ Hàng Bột để giúp giải tội với cha Chiễu. Tôi cũng bị nhóm UBLLCG (tội gọi là nhóm lệch lạc CG) theo sát, khiến tôi phải ra về cửa sau. GX Thái Hà bị coi như là ổ gián điệp, người ra vào thăm tôi đều bị ghi số xe. Tôi bị cô lập. Không mấy ai dám đến thăm. Chỉ còn lại hai người thân cận: ông bõ, và ông kéo chuông… Trong những năm chờ đợi giải quyết việc Giám mục Phó Phát Diệm thì xảy ra việc cha Nguyễn Thế Vịnh qua đời.Ngài là chủ tịch Ủy ban Liên Lạc Công Giáo, là gốc Phát Diệm, xuất thân từ Đại Chủng viện Thượng Kiệm, học trên Đức Cha Tạo 1 lớp. Trong lúc đưa xác cha Vịnh về quê quán Phát Diệm, tôi xin được quá giang xe của Ủy ban LLCG, bây giờ đã đổi thành Ủy ban Đoàn Kết Công Giáo (ĐKCG), trên xe mọi người trong Ủy ban nhìn tôi với ánh mắt không mấy thiện cảm. Đến Phát Diệm, ban tổ chức bố trí các khách về dự tang lễ cư ngụ trong một ngôi nhà ở Trì Chính. Cha già Phaolô Nguyễn Chu Trình nói nhỏ với tôi để gợi ý là cả hai chúng tôi nên vào Nhà Chung nghỉ, nhân thể vấn an Đức Cha Chính. Nhưng có một anh ĐKCG nhất định không cho tôi đi». (4)

Ngày nay có những người muốn xóa nhòa lịch sử. Nói rằng Ùy Ban Liên Lạc Công Giáo do đảng CSVN không lập ra để tiêu diệt CG (công cụ đàn áp CG), không tác hại gì nhiều đến giáo hội CG miền Bắc lúc đó. Họ muốn làm nhẹ đi vấn nạn, để xí xóa. Thực chất của UBLL không kém phần thâm hiểm, và ác hại như chủ của nó là đảng CSVN (đảng không gầy dựng và nuôi dưỡng tổ chức, cá nhân nào không có lợi cho họ, và không làm theo lệnh của họ). Những sự kiện cụ thể, được nhân chứng lịch sử kể lại. Được  nêu ra, trong bài viết này chỉ là một phần nhỏ tội ác  của CSVN và tay sai UBLL gây ra nhằm tiêu diệt CG lúc bấy giờ. GH không bị diệt vong hay trở thành Cộng Giáo như Hán Cộng giáo (Hội Công Giáo yêu nước Tam Tự của đảng TC).

Ngoài ơn Chúa gìn giữ còn nhờ ba yếu tố quyết định: (đã nói trong bài trước)

– Giáo Huấn nghiêm nhặt đúng đắn của tòa thánh Vatican.

– Tất cả Giám Mục các giáo phận đồng lòng trung thành với đức tin tinh tuyền, giữ vững căn tính Công Giáo, yêu mến đàn chiên của Chúa. Các ngài không ngại hy sinh, gian khổ, đồng sinh đồng tử với đàn chiên, sẵn sàng chết để bảo vệ họ, như Mục Tử Tốt Lành Giêsu.

– Đàn Chiên yêu mến, trung thành với giáo huấn của Giám Mục. Họ cũng dám xả thân để bảo vệ chủ chăn.

Làm nên một giáo hội hiệp nhất đúng như lời Chúa dạy là cho UBLL bó tay vì bị cô lập, không thể  thực thi lệnh của đảng là xé nát sự hiệp nhất của GHCG. Đảng CSVN cũng không thể biến CG thành một giáo hội CG trá hình như các tôn giáo khác.

____________

Ghi chú:

1. http://www.vietcatholic.net/News/Html/249552.htm

2. https://nhathothaiha.net/nho-vi-muc-tu-nhan-lanh-duc-cha-phaolo-bui-chu-tao-1909-2001-giam-muc-phat-diem-phan-2/

3. Chứng từ của GM Phaolo Lê Đắc Trọng/ http://www.vietcatholic.net/News/Html/54286.htm

4. http://www.giadinhanphong.com/trang-chinh-2/bai-viet/vu-sinh-hien-cau-chuyen-cua-nhung-cay-dai-thu—cha-gia-vu-ngoc-bich-cssr.

VNTB – Ủy ban Đoàn kết Công giáo – Công cụ đàn áp của ĐCSVN – Bài 4

Phan Nhân Quyền

(VNTB) – «Ôi ! thế là Đoàn Kết đã ngự trong Tòa rồi ….»

Bài 4: Uỷ ban Liên lạc Công giáo hồi sinh và đổi tên thành «Uỷ ban Đoàn kết Công giáo yêu nước»

Nhắc lại bài 3, đã chỉ ra thất bại của đảng CSVN, kế hoạch lập ra một giáo hội CG tự trị như các nước CS khác (tiếm danh CG, do đảng chỉ đạo). Với sự tiếp tay của UBLLCG quy tụ được một số LM, Tu Sĩ và giáo dân phản đạo. Không phải vì đảng CSVN và tay sai kém thâm độc nhưng nhờ TT Vatican, các GM, hầu hết giáo dân giữ vững tình hiệp nhất và kiên vững, không ngại hy sinh trung thành với đức tin Công Giáo thánh thiện, tinh tuyền.

Đức Cha Phaolo Lê Đắc Trọng kể chuyện. Những giáo sứ do những LM trong UBLLCG trông coi, hoang tàn và tiêu điều. Vì giáo dân không tham gia, đóng góp và tẩy chay cha sứ. Nhiều LM phải sống một mình , nhờ vào trợ cấp của nhà cầm quyền, tự đi chợ, tự nấu ăn và tự túc mọi chuyện chẳng ai giúp. Do đó đến sau 1975, UBLLCG ngoài bắc, không còn sức sống, đang cơn hấp hối.

Trong khi ở miền Nam VN, một số LM tập kết ra Bắc như : LM Hồ thanh Biên, Lương minh Ký, Võ thành Trinh, Nguyễn bá Lễ. Ngoài ra có LM không tập kết ra bắc ở lại miền nam «nằm vùng». Lập ra cái gọi là «Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước». Và sau đó gia nhập  Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tổ chức này lợi dụng hiến pháp tự do dân chủ cùa VNCH và núp bóng Công giáo, ủng hộ MTGPMN chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Gồm có một số LM tích cực, cầm đầu như: LM Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Thanh Lãng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Vương Đình Bích, Nguyễn Quang Lãm, Vương Đình Ái, Nguyễn Nghị …..

Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, CSVN và cùng với UBLLCG đã lợi dụng được tình thế chính trị và tâm lý của giáo đoàn Công Giáo miền nam, mặc cảm, thua cuộc, bỏ chạy và sợ hãi. ĐC Phao Lô Lê Đắc Trọng viết: «Người Công giáo miền bắc chịu bao khốn khó, tù đầy cũng là do nhóm này… Cũng may là những linh mục hay giáo dân lãnh đạo được lựa chọn, ở những thành phần không đạo đức, nên ít ai theo; nhưng họ lại có quyền của nhà nước, mà họ dốt nát, nên càng dữ tợn, người ta vừa sợ, vừa biết bộ mặt của họ. Vì thế, nó đã sắp tàn nếu không có miền Nam đến tiếp sức và hồi phục nó dưới nhãn hiệu mới “Ủy ban Đoàn kết”. Uỷ ban này có lãnh đạo trí thức (các linh mục bằng cấp), tìm được đất màu mỡ ở miền Nam và sống mạnh, nhờ vào việc thay đổi chiến thuật…». (HK toàn tập, Phần Hai – Giáo Hội CGVN Trước Cơn Bão Thời Đại, trang 260-261).

Dù là lấy danh hiệu gì, thay họ đổi tên bao nhiêu lần thì UBĐKCG cũng chỉ là tập hợp những tên Giuda thời đại, là tay sai một thứ công cụ của đảng CSVN xử dụng để đàn áp Công Giáo, kiểu «Lấy củi đậu, nấu đậu» để che mắt thế giới, tránh né bị chỉ trích vi phạm nhân quyền. Sau khi chiếm được MNVN, Cộng sản say men chiến thắng, những tên Giuda thời nay cũng dựa hơi thừa thắng xông lên. 1975 là thời điểm chủ nghĩa CS quốc tế, cầm đầu là Liên Xô, và Trung Cộng cũng đang cao trào. CSVN ra tay đàn áp khốc liệt, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo không loại trừ Công Giáo. Nhà thờ, đền Chùa, thánh thất, các công trình tôn giáo không bị phá bỏ cũng bị chiếm đoạt dưới mọi hình thức. Học theo các đàn anh CS quốc tế, CSVN thu dụng những thành phẩn Tu Sĩ hèn nhát, ích kỷ, chỉ mưu cầu quyền thế lợi lộc cá nhân (tất nhiên được che đậy kỹ càng) phản lại lý tưởng tôn giáo của họ. CSVN lập ra những «tôn giáo» song song, một bản copy hình thức, tiếm danh tôn giáo chân truyền: như Phật Giáo Việt Nam, Cao Đài chi phái 1997, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành quốc doanh. Những tổ chức này trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) hoàn toàn lệ thuộc đảng CSVN. Tương tự UBĐKCG cũng hoàn toàn dưới quyền điều khiển trực tiếp, nhận lệnh từ MTTQ.

Nhóm «Công Giáo Tiến Bộ» (là những LM chủ chốt trong cái gọi là «Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước») họ dùng danh xưng khác đễ chiêu dụ nhưng tu sĩ, giáo dân ngây thơ nhẹ dạ. Phát động song hành 2 cuộc đấu tranh nhắm vào 2 mục tiêu: một là trục xuất Đức Khâm Sứ; hai là buộc Đức TGM Phanxicô Nguyễn Văn Thuận phải từ chức Phó Tổng Giám Mục Sài Gòn (do sắc phong của Toà Thánh ngày 25-4-1975). Nhiều sách vở đã kể về vụ Đức TGM Nguyễn Văn Thuận bởi vì Ngài quá nổi tiếng. (Giáo Hội đang xúc tiến việc tuyên thánh cho Ngài). Ở đây, chúng tôi chỉ tường thuật vụ Đức Khâm Sứ, bởi vì chủ đề loạt chuyện của chúng tôi trong sách này là của LM Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, bí thư Toà Khâm Sứ. Cha Thụ cũng là chứng nhân của các vụ việc xẩy ra liên quan tới Đức Khâm Sứ. Thành phần của «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» đã ký tên vào bức tâm thư «Gởi Anh Chị Em Công Giáo Miền Nam Việt nam» (nội dung cáo buộc Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre một số tội và đòi Ngài phải ra đi) gồm có 8 tổ chức:

Phong Trào Thanh Lao Công Phong Trào Công Giáo và Dân Tộc Đoàn Sinh Viên Dự Tập Dòng Chúa Cứu Thế (rất ít)

Nhóm Liên Tu Sĩ Trẻ (rất ít)

Phong Trào Công Giáo Xây Dựng Hoà Bình (ma)

Phong Trào Thanh Niên Công Giáo Đại Học (rất ít)

Tổng Đoàn Thanh Niên Công Giáo (ma)

Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo (rất ít)

Thực sự thì hầu hết các tổ chức kể trên chỉ có dăm ba thành viên, thậm chí chỉ là tổ chức ma mới «thành lập» hoặc là một người mà tham gia mấy tổ chức, nhưng đã được những kẻ giật dây nặn ra, cốt để gây thanh thế.

Hai thành phần chính yếu trong «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» là các linh mục và các sinh viên Công Giáo «tiến bộ». Các linh mục «tiến bộ» gồm có: Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích, Thanh Lãng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị, Nguyễn Thiện Toàn, Trần Viết Thọ, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Văn Hoà, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Trinh, Nguyễn Văn Huệ, Đinh Bình Định…

Đông hơn cả là nhóm sinh viên Công Giáo «tiến bộ» (không loại trừ là những cán bộ đảng viên do CSVN gài vào ). Những tay tranh đấu hung hăng nhất trong nhóm này là: Nguyễn Văn Ngọc, Đoàn Khắc Xuyên, Nguyễn Xuân Hàm, Vũ Sĩ Hùng, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Ziên Hồng, Phạm Văn Phổ, Nguyễn Văn Hồng, Trịnh Viết Trung, Dương Thị Hoè, Phi Nga…

(Xem Công Giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-1975 của Nguyễn Antôn. Dân Chúa xuất bản 1988. Trang 225).

Theo một số tác giả từng là chứng nhân tình hình sau 30-4-1975 thì Cộng Sản đã dùng chiến thuật dùng chính người Công Giáo để đánh phá Giáo Hội Công Giáo Miền Nam, mà tên giáo gian đầu sỏ chính là Nguyễn Đình Đầu.

Một trong số các tác giả ấy là Lữ Giang, tức thẩm phán Nguyễn Cần (VNCH), đã viết: «Nguyễn Đình Đầu, một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong hàng ngũ Công Giáo, ở trong nhóm Sống Đạo, đã đứng đàng sau sắp xếp và tổ chức các trận đánh phá này» (Lữ Giang. Những Bí Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam. 1994. Trang 200)…

Ông viết tiếp: «Trong cuốn “30 tháng 4” do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của Việt Cộng cho biết Nguyễn Đình Đầu là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay Cộng Sản» và «… Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bên ngoài Nguyễn Đình Đầu không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong Nguyễn Đình Đầu đã đứng ra tổ chức và giật giây các chiến dịch chống phá Giáo Hội Công Giáo. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công… đều có bàn tay thúc đẩy của Nguyễn Đình Đầu» (Lữ Giang. Sđd. Trang 220, 221). Để đạt mục tiêu trục xuất Đức Khâm Sứ, «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» đã tổ chức 3 cuộc biểu tình đấu tranh:

– Lần thứ nhất: Ngày 02-4-1975, họ kéo tới biểu tình trước Toà Khâm Sứ đường Hai Bà Trưng. Họ đòi Đức Khâm Sứ phải ra đi. Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre vẫn bình tĩnh, nhẫn nại và can đảm. Ngài từ chối yêu sách của nhóm tranh đấu và dứt khoát không rời khỏi Việt Nam nếu chưa có lệnh của Toà Thánh. Lúc này, Cộng Sản chưa chiếm được Sài Gòn, cho nên «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» chưa có hành động thô bạo.

– Lần thứ hai: Ngày 14-5-1975, tức là lúc Miền Nam đã lọt vào tay Cộng Sản, nhóm đấu tranh tỏ ra hết sức hung bạo. Đi đầu là Nguyễn Phúc Khánh, bọn họ trèo tường đột nhập Toà Khâm Sứ, dùng búa đập bể ổ khoá cổng để đám đông tràn vào. Mấy tay xông xáo hơn đã trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ cờ Toà Thánh xuống. Bọn họ dùng lời lẽ của phường bất hảo để thoá mạ, hò hét. Mỗi lần hô «Đả đảo! Đả đảo!», «Henri Lemaitre cút đi, cút đi…!» thì cả bọn đồng loạt giơ lên cao những nắm đấm, y hệt một hoạt cảnh bần cố nông đấu tố địa chủ ở Miền Bắc hồi 1954. Sau đó, họ dùng vũ lực xô đẩy Đức Khâm Sứ, linh mục phụ tá nguời Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi cổng Toà Khâm Sứ, rồi đóng cửa lại.

Trong đợt đấu tranh bạo động này, người ta nhận diện 3 linh mục nổi bật: LM Phan Khắc Từ xách động bên trong Toà Khâm Sứ, LM Huỳnh Công Minh chụp hình liên tục (để báo cáo), còn LM Thanh Lãng thì đứng bên kia đường để «lược trận». (2)

Rập theo chủ trương của Cộng Sản là dùng bất cứ phương tiện nào miễn là đạt mục đích. Trong những lần đối thoại giữa đôi bên, những tay cầm đầu «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» bất chấp tất cả, đã dám đe doạ Đức Khâm Sứ: «…nếu Đức Khâm Sứ không chịu từ chức và ra đi, thì người ta bắt buộc phải dùng đến một biện pháp “rất đáng tiếc”». (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 220).

– Lần thứ ba: Tối ngày 03-6-1975, «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» lại tổ chức biểu tình tại Toà Khâm Sứ.

Lần này xẩy một sự việc đau lòng. Đó là khi nghe tin Toà Khâm Sứ lại bị «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» quậy phá, hàng ngàn giáo dân trẻ thuộc giáo xứ Bùi Phát kéo nhau đi giải vây cho Đức Khâm Sứ. Đoàn người bị bộ đội Cộng Sản ngăn chặn tại cầu Trương Minh Giảng, một giáo dân bị bắn chết, LM Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt giữ.

Chiến dịch đánh phá của «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» đã lộ nguyên hình họ là những tên «Giu Đa bán Chúa» bởi vì hành động của họ tạo nên cái cớ rất tốt, rất đúng lúc để chính quyền Cộng Sản ra tay. Thật vậy, ngay sáng hôm sau, ngày 04-6-1975, Bộ Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời MNVN đã mời Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre đến để bảo cho biết: «Ngài nên lánh khỏi Việt Nam trong một thời gian, và càng sớm càng tốt, nếu không sự hiện diện của Ngài sẽ không còn được bảo đảm» (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 221). Theo ngôn ngữ ngoại giao phải hiểu đây là lệnh trục xuất. Đức Khâm Sứ phải lấy máy bay để rời khỏi Sài Gòn vào hôm sau 05-6-1976.

Đức Khâm Sứ đi rồi, linh mục phụ tá người Ba Lan yêu cầu linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ phải vào ở thường trực trong Toà Khâm Sứ để phụ với ông đối phó với tình hình mới.

Nghe biết tin này, từ Vatican, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Jean Villot gửi cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà MNVN một bức thư nói: «… rất đau lòng khi hay tin… và sẵn sàng mở những cuộc tiếp xúc cần thiết…» (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 222).

* http://vietcatholic.org/NewsComposer/Home/Article/221147

Trên đây là chiến công đầu tiên của UBDKCG (lúc còn chưa đổi tên ) công khai chống lại giáo hội CGVN, dâng đảng làm quà mừng chiếm được MNVN, thống nhất quyền thống trị của đảng CSVN trên cả nước vực dậy tinh thần cho UBLLCG ở Bắc Việt. Để cùng nhau cung cúc tận tụy, phục vụ csVN, cùng tiến đến thống nhất dưới danh xưng Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước . Ngày 10 tháng 11 năm 1983, quyết định thành lập Ủy ban đoàn kết Công giáo yêu nước Việt Nam. Chủ tịch là linh mục Nguyễn Thế Vịnh, các phó chủ tịch gồm các linh mục Phạm Quang Phước,  Phêrô Võ Thành Trinh , Vương Đình Ái, Huỳnh Công Minh.

Bắt đầu từ thời điểm đó UBĐKCG với những thành phần LM, Tu Sĩ, và Giáo dân phản lại GHCGVN, chính thức tiếp tay CSVN kiểm soát, khống chế TGM Phao lô Nguyễn Văn bình và các đời TGM sau này. Đến nỗi Cố GM Phaolô Lê Đắc Trọng phải than: «Ôi ! thế là Đoàn Kết đã ngự trong Tòa rồi ….» Đức Cha nói thế này  «Một Đức Giám Mục nói về Tổng Đại Diện của mình đang thao túng mọi việc trong Giáo phận mà vị đó đã là và nay vẫn còn tinh thần patriot, Toà Thánh đã biết, dư luận chống đối, muốn vị đó từ chức». Đức Giám Mục nói: «Ông ấy tốt, giúp nhiều việc, làm sao bãi chức ông được. Khi nào tôi chết, tức khắc ông ấy hết quyền». Bi đát làm sao! Truyện thật 100%! Những ấn loát muốn được ra mắt, phải dán nhãn hiệu «Đoàn Kết» Các tác phẩm mất giá một phần, bị nghi ngờ. Nay dưới nhãn hiệu «Xuất bản của Toà Tổng Giám Mục».

Đức cha cay đắng kết luận: «Lãnh tụ đã vào ngự toà rồi!»; (trang 261-262 hồi ký GM Phaolo Lê Đ Trọng ) như thế mọi người hiểu rằng TGM nào rồi? Tổng đại diện HCM còn ai vào đây (được mệnh danh là TGM không ngôi ).

*** https://www.saigonecho.org/main/doisong/tongiao/32839-phaolo-le- c-trng.html

Đương nhiên những chuyện như thế TGM không dám công khai tố cáo với công luận với giáo dân. Ép buộc TGM từ bỏ tên cũ TGP Sài Gòn.

Phải lấy tên của một tên vô thần, tay sai CS quốc tế, giết dân lành không chớp mắt, rước chủ nghĩa Cộng Sản tàn độc chống lại Thiên Chúa, vào cưỡi đầu cưỡi cổ dân tộc khốn khổ Việt Nam. Lấy Hồ Chí Minh đặt tên cho TGP (chỉ có TGM được yêu cầu Tòa Thánh đổi tên).

Ôi! xấu hổ thay. Cha Andrew Nguyễn Hữu Lễ than: «Tôi là một LM Công Giáo, rất là xấu hổ, đau đớn việc một Tổng Giáo Phận của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải mang tên của Hồ Chí Minh là lãnh tụ của một chế độ đã và đang thẳng tay đàn áp tất cả các tôn giáo tại Việt Nam, là một điều đau khổ và tủi nhục cho những người Công giáo Việt Nam chân chính. Đã 29 năm qua, những người Công giáo Việt Nam phải cúi đầu im lặng trước tình trạng này dưới áp lực của một số giáo sĩ trong Tổng Giáo Phận Sài Gòn cấu kết với chính quyền Cộng sản gây ra.»

*** http://www.tonggiaophansaigon.org/index.html

Kỳ 5: Những thành tích chống phá GHCGVN của UBĐKCG. 15/08/2023 (nhớ 48 năm ngày nhóm Giuda thời nay giao nộp TGM phó FX Thuận cho CSVN)

Phannhanquyen@gmail.com

(*) Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả

Tin Bài Liên Quan:

VNTB – Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo: công cụ của Đảng Cộng Sản (bài 1)

VNTB – Ủy ban Đoàn kết Công giáo: công cụ đàn áp của ĐCSVN (bài 2)

VNTB – Đảng tự xử đi!

VNTB – Đảng không ngừng sử dụng bạo lực đàn áp nhân dân

VNTB – Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo: công cụ của Đảng Cộng Sản (bài 1)

Phan Nhân Quyền

(VNTB) – Chia để trị

Bài 1: Lý do và mục đích sự hình thành tổ chức bán chính trị và kế hoạch của ĐCSVN

Qua loạt bài viết này về Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo, UBĐKCG, một tổ chức được ĐCSVN thành lập để xâm nhập, kiểm soát, tha hóa và đàn áp Công Giáo, tôi sẽ nói về những hoạt động trực tiếp hay gián tiếp, vô tình hay cố ý, uỷ ban này tiếp tay ĐCSVN phá hoại giáo hội Công Giáo Việt Nam (GHCGVN).

Tôn giáo là một hệ thống các quan điểm, giá trị, và thực hành liên quan đến mối quan hệ giữa con người và các thực thể thần linh, thiên nhiên, v.v., mà tín đồ tin rằng tồn tại. Tôn giáo thường bao gồm tín ngưỡng, lễ nghi, cầu nguyện, kinh thánh, và các điều răn dạy. Nó có thể được thực hành như một cách để tìm kiếm một hiện hữu cho đời sau, after-life, tìm ý nghĩa và mục đích trong cuộc sống, để nâng tâm hồn lên với Thiên Chúa, Đấng Tối Cao hoặc để tạo ra một nền tảng giá trị đạo đức, tư duy để hướng dẫn các hành động của con người.

Tôn giáo đối nghịch với cộng sản duy vật, vô thần tự bản chất. Tôn giáo và chủ nghĩa vô thần là hai quan niệm đối lập nhau về mối quan hệ giữa con người và thực thể tôn giáo, cách tiếp cận cuộc sống và ý nghĩa của nó.

Cộng sản luôn coi Tôn giáo cạnh tranh quyền lực với nó nhiều lĩnh vực nhất là phương diện tập hợp dân chúng, giáo dân. Ở các địa phương nhà cầm quyền CS cũng  cạnh tranh với tôn giáo, «tại sao ông cha nhà thờ nói gì dân cũng nghe. Cần bao nhiêu tiền cũng có giáo dân vui vẻ đóng góp. Đảng và nhà nước thì rất khó mà vận động được như thế…». Như thế tôn giáo nhân rộng sự đoàn kết trong giáo hội và lan rộng (và có thể trở thành một lực lượng đối kháng với Đảng) trong lúc cộng sản thực hành kiểu «chia để trị», chia rẽ cá nhân với cá nhân, giữa các bộ phận trong một tôn giáo và các tôn giáo với nhau.

Chủ nghĩa cộng sản thường tập trung vào các giá trị và lý tưởng chủ nghĩa nhân văn và xã hội chủ nghĩa, trong đó con người được đặt ở trung tâm của mọi hoạt động và quyết định xã hội. Các nhà lãnh đạo cộng sản cũng có thể sử dụng các lý thuyết vô thần để bác bỏ các tôn giáo và truyền bá các giá trị vô thần như là một phần của quyền lực và kiểm soát xã hội.

Cũng như tất cả tất cả các đảng cs quốc tế khi cướp được chính quyền, việc đầu tiên là kiểm soát, đàn áp và tiêu diệt tôn giáo, kẻ thù số một của chủ nghĩa vô thần CS. Tôn giáo hướng thiện, tôn trọng nhân quyền, bảo vệ nhân phẩm của tín đồ nói riêng và toàn nhân loại nói chung. Tôn giáo thực chất có tính phổ quát toàn cầu, dậy tín đồ kính trọng và gìn giữ lịch sử dân tộc, yêu Nước và đùm bọc, tương trợ lẫn nhau giữa con người và con người. Hơn thế nữa, tôn giáo luôn đề cao phẩm giá con người, xiến dương công lý và kêu gọi hòa bình. Cộng sản luôn đề cao hận thù và đấu tranh giai cấp

Sau khi cướp được chính quyền 19/08/1945, tuy tự che dấu là cộng sản, chư hầu của Cộng sản Tàu (TC), nhưng CSVN đã bắt đầu thanh trừng các tôn giáo. Nói riêng về đối với đạo công giáo, họ trắng trợn tịch thu, phá nhà thờ, bắt bớ, giết hại LM và giáo dân (GD) hoặc ép bỏ đạo.

Sau hiệp định Geneva chia đôi đất nước Việt Nam, ĐCSVN cai trị hoàn toàn miền Bắc Việt Nam, họ bắt đầu kế hoạch cụ thể đối phó với GHCGVN. Họ tập hợp một số LM, tu sĩ đã bị tha hóa cầm đầu là LM Vũ Xuân Kỷ lập nên tổ chức Ủy Ban Liên Lạc Công Giáo (UBLLCG tiền thân của UBĐKCG)

Linh Mục Vũ Xuân Kỷ sinh ngày 25-12-1886 tại Khánh Thôn, Mỹ Thuận, Mỹ Lộc, tỉnh Nam Hà, thụ phong linh mục ngày 19-12-1921.

Tháng 8-1945, ông trực tiếp tham gia phong trào cứu quốc. Năm 1946, vào Ban Chấp Ủy tỉnh hội Liên Việt, Nam Định. Năm 1949, là Phó Hội Trưởng Hội Liên Việt Liên Khu 3. Năm 1950, ông đứng ra triệu tập Hội Nghị Công Giáo Kháng Chiến Liên Khu 3. Hội nghị này thành lập Ủy Ban Liên Lạc Kháng Chiến Liên Khu 3, ông làm cố vấn và là chủ nhiệm báo Sáng Danh Chúa. Sau đó ông lần lượt làm ủy viên Ủy Ban Liên Việt, Phó Chủ Tịch Ủy Ban Bảo Vệ Hòa Bình Thế Giới của Việt Nam. Năm 1955, trong Đại Hội Công Giáo Toàn Quốc, ông được bầu Chủ Tịch Ủy Ban Liên Lạc Toàn Quốc những người công giáo Việt Nam yêu tổ quốc, yêu hòa bình. Tháng 9-1955 làm Ủy Viên Đoàn Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam. Sau đó làm đại biểu quốc hội. Ông được trao huân chương Độc Lập hạng Ba, huân chương Kháng Chiến hạng Nhất. (1)

Trong thư đề ngày 12/3/1955, một ngày sau khi ủy ban này được thành lập, ký chung với các Giám mục khác, cố Giám Mục Phaolo Lê Đắc Trọng, nguyên GM phụ tá TGP Hà Nội đã lên tiếng cảnh giác các Kitô hữu về mối nguy hại mà Ủy ban Liên Lạc những người Công Giáo Yêu Tổ quốc, yêu Hòa bình ( UBLLCG)  sẽ gây ra rằng, «Phong trào Những người Công giáo Kính Chúa Yêu Tổ Quốc Và Hòa Bình, được một số linh mục hoàn toàn bên ngoài hàng giáo phẩm phát động tại Hà Nội, là một mối nguy hiểm cho sự thống nhất của Giáo hội tại Việt Nam. Hàng giáo phẩm không nhìn nhận phong trào này có liên quan đến các linh mục và tín hữu» (2) Trong thực tế, cố Giám Mục Phaolo Lê Đắc Trọng đã nhiều lần lên tiếng ngăn cấm các linh mục tham gia ủy ban này bằng việc rút phép thông công (3) những linh mục theo Ủy ban Liên lạc Công giáo. Có lẽ vì thế mà cho tới tận hôm nay, giáo phận Hà Nội luôn tự hào là giáo phận không có bất cứ linh mục hay tu sĩ nào tham gia Ủy ban Đoàn kết Công giáo, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản.

Giáo Hội Miền Bắc bị đày ải, cực nhọc nhất với UBLLCG.  Nhóm này trong nhiều năm là công cụ để phá đạo, bách hại đạo, giống kiểu Julien Apostats (4): lấy đạo chống đạo, lấy người có đạo đập người có đạo, lấy con cái chống lại cha mẹ.

Người ta bảo, Nhà nước tôn trọng tôn giáo, những xích mích là do nội bộ các anh. Thế nhưng họ lại áp đặt rằng ai không theo UBLLCG là không theo chế độ, chống lại nhóm đó là chống lại nhà nước, bị chụp mũ là đội lốt tôn giáo, phản quốc, chống lại những người yêu nước. Người Công giáo chịu bao khốn khó, tù đầy cũng là do nhóm này. Cũng may, cộng sản chỉ chọn được những tu sĩ, giáo dân kém đạo đức, ham quyền và lợi lãnh đạo UBLLCG, nên ít người công giáo chân chính theo; nhưng họ lại được đảng cho chút quyền, mà họ dốt nát, nên càng dữ tợn, người ta vừa sợ, vừa xa lánh bộ mặt của họ.(5)

Tại miền nam Việt Nam (MNVN) dưới thời Việt Nam Cộng Hoà (VNCH)  một chính phủ tự do dân cử. Dù  chưa chiếm và cai trị Miền Nam, nhưng để hỗ trợ cái «chính phủ ma» được gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam( MTGPMNVN) trong kế hoạch nhuộm đỏ Đông Nam Á hay tiến chiếm MNVN, tháng 4 /1961 một tổ chức tương tự Ủy ban Liên lạc Công và sau đó gia nhập MTGPMNVN,  với mưu đồ lâu dài với GHCGVN tại miền nam

Thư chung 1960 của các giám mục miền Nam tiếp tục nói về vấn đề «Cộng sản vô thần» để giúp người tín hữu «thấu hiểu nó nguy hại và nham hiểm đến mức nào trong việc tiêu diệt đức tin của chúng ta». Sau khi khẳng định giữa học thuyết Công giáo và Cộng sản «không thể đi đôi với nhau», Thư chung kết luận: «Muốn cho Đạo thánh được nguyên vẹn, người Công giáo phải phủ nhận lý thuyết Cộng sản và những áp dụng của nó đến tận cùng». Để củng cố cho lập luận ở trên, Thư chung 1960 trích dẫn nhiều khoản của Thư chung 1951 (6)

 Từ cái gọi là HNCGYN Xuất hiện «Phong trào Công giáo» chống chiến tranh và kêu gọi hòa bình. Họ không chấp nhận chống Cộng sản bằng bất cứ giá nào. Nổi bật nhất là những người mệnh danh «Công giáo tiến bộ», gồm cả linh mục lẫn giáo dân, thuộc nhiều phong trào và nhóm khác nhau. Một số sự kiện nổi bật nhất của «Phong trào» này là: Lá thư của «Một số linh mục Việt Nam trước vấn đề hòa bình của dân tộc»( phát hành 01.01.1966); việc thành lập «Phong trào Công giáo xây dựng hòa bình» (24.11.1970); Thỉnh nguyện thư gửi Giáo quyền của 10 linh mục Việt Nam và 2 linh mục người Mỹ (1.10.1971) khởi đầu việc chống lại  chính quyền VNCH và Các GM miền nam VIệt Nam! yêu cầu xét lại tinh thần Thư chung 1951.

Nhìn lại lịch sử đề thấy âm mưu thâm độc của ĐCSVN đã tiến hành kế hoạch tiêu diệt Công giáo từ khi họ cầm quyền như thế nào.

________________

Tham khảo

(1) http://baochi.nlv.gov.vn/baochi/cgi-bin/baochi?a=d&d=Qik19720905.2.26&srpos=&dliv=none&e=——-vi-20–1–img-txIN-

(2) (Vietnamese Studies số 53, tr. 200).

(3) Rút phép thông công là kiểu nói bình dân để nói về những vạ được bàn tới trong Giáo luật. Trong bộ luật này có nhiều vạ dành riêng cho từng giới. Nặng hơn cả là vạ rút phép thông công. Theo từ chuyên môn của Giáo luật thì vạ này là vạ tuyệt thông. Tuyệt thông là hình phạt Hội thánh dành cho tín hữu nào lỗi phạm trầm trọng những điều ghi trong Giáo luật. Người bị vạ tuyệt thông không được hòa nhập cùng Hội thánh, không được xưng tội rước lễ, tham dự các lễ nghi và hưởng nhờ các ơn phúc thiêng liêng Hội thánh dành cho con cái mình và nếu là linh mục thì bị huyền chức và bị thải hồi về bậc giáo dân trong những lỗi phạm quá tai tiếng.

1 trong 7 vạ theo các chỉ thị của Công đồng Va-ti-ca-nô II bị rút phép thông công là Bỏ đạo, rối đạo, ly khai khỏi Giáo hội Rô-ma.

(4) Julian (sinh năm 332), cháu trai của hoàng đế Kitô giáo đầu tiên, Constantine , được đào tạo như một Cơ đốc nhân, nhưng ông được gọi là tông đồ vì khi ông trở thành hoàng đế (AD 360), ông phản đối Kitô giáo. Trong Demise của Paganism , James J. O’Donnell cho thấy lập trường đặc biệt kịch liệt của hoàng đế chống lại Kitô giáo (và hỗ trợ cho các tôn giáo độc thần khác, Do Thái giáo) bắt nguồn từ giáo dục Kitô giáo của mình.

(5)  Trích hồi ký của  cố GM Phaolo Lê Đắc Trọng chương V * https://saigonecho.org/main/tintuc/binhluan/13163-hi-ky-c-gm-le-c-trng-hin-tinh-ton-giao-sau-nm-1975.html

(6) https://luongtamconggiao.wordpress.com/2010/11/03/th%C6%B0-chung-cac-gm-dong-d%C6%B0%C6%A1ng-1951-va-th%C6%B0-chung-cac-gm-mi%E1%BB%81n-nam-1960/ (Các giám mục miền Nam, Thư chung, ngày 2.3.1960.)

VNTB – Ủy ban Đoàn kết Công giáo: công cụ đàn áp của ĐCSVN (bài 2)

Phan Nhân Quyền

(VNTB) – Sau bức bình phong là Uỷ Ban Liên Lạc giống như Liên Xô và các nước cộng sản, họ truyền cho nhau cách thức tiêu diệt tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.

Bài 2 Những tác hại của Ủy ban Liên lạc Công giáo trên thân thể giáo hội Công Giáo miền Bắc.

Như bài 1 đã nói qua, các quốc gia cộng sản nắm quyền cai trị luôn tìm mọi cách tiêu diệt tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo (CG), cách thức đàn áp, tiêu diệt tùy theo bối cảnh chính trị và thế mạnh yếu của đảng CS lúc đó. Biết rằng CG là một giáo hội hiệp thông toàn cầu, hầu hết tín đồ Công Giáo Việt Nam (CGVN) được thấm nhuần đức tin kiên trung được tôi luyện qua thời bách đạo dưới triều Nguyễn, hàng trăm ngàn các vị thà chết để bảo vệ đức tin, làm chứng cho đạo Chúa Ki Tô. Sau gần một trăm năm nô lệ giặc Pháp. Người dân Việt Nam khao khát độc lập tự do, lòng yêu nước dâng trào, sẵn sàng hy sinh cho cho tổ quốc, gia đình, con cháu thoát kiếp nô lệ thực dân, CSVN bề ngoài mềm dẻo hơn với CG để che đậy mưu đồ từng bước tiêu diệt công giáo không kém phần sắt máu núp bóng mặt trận Việt Minh, lợi dụng chiêu bài giải phóng, dành độc lâp dân tộc chiêu dụ được một số ít LM, tu sĩ và giáo dân nhẹ dạ, không biết và không hiểu rõ chủ nghĩa cộng sản; sau các người này có biết cũng đã bị tha hóa bởi danh, lợi  và dục vọng quá đà không còn quay lại được nữa.

UỶ BAN LIÊN LẠC NHỮNG NGƯỜI CÔNG GIÁO YÊU TỔ QUỐC YÊU HOÀ BÌNH gọi tắt là Uỷ Ban Liên Lạc (UBLL) được hình thành sau các phiên họp 3 ngày từ 8-11 tháng 3 năm 1955, người đứng đầu là linh mục Vũ Xuân Kỷ, thuộc địa phận Hà Nội; ông này sau bị Đức Giám mục Giuse Maria Trịnh Như Khuê treo chén (*). Cùng trong UBLL này với cha Kỷ là linh mục Nguyễn Tất Tiên, cũng thuộc địa phận Hà Nội, ông cũng bị Đức Cha Khuê treo chén, thêm các linh mục miền Nam tập kết ra Bắc như Hồ Thành Biên và Võ Thành Trinh.

 Uỷ ban Liên lạc đặt trụ sở tại dòng Đa Minh (Lyon), đường Hùng Vương HN. UBLL tỉnh Nam Định gồm các linh mục Nguyễn Thế Vịnh và Nguyễn Tất Tiên. Trong thực tế Uỷ ban này chỉ hoạt động hạn chế trong hai địa phận Hà Nội và Hải Phòng, có nơi bị giáo dân tẩy chay công khai. Cha Võ Thành Trinh từ miền Nam ra, trấn nhậm giáo xứ Hòn Gai, ngoài tầm kiểm soát của Giám mục, hành lễ vẫn có giáo dân tham dự vì hiếm hoi linh mục (Đức Cha Giuse Trương Cao Đại di cư vào Nam, kéo theo gần hết linh mục đoàn của địa phận Hải Phòng, chỉ còn lại 8 cha khi Đức Cha Phêrô Khuất Văn Tạo về nhận địa phận (1) 

Cũng như đàn anh Trung Cộng, CSVN sao y chính sách cai trị của Trung Cộng đề ra nô lệ hóa nhân dân, củng cố độc tài toàn trị, huy động toàn bô hệ thống chính quyền vào việc tiêu diệt tha hóa CG. Sau bức bình phong là UBLL giống như Liên Xô và các nước cộng sản, họ truyền cho nhau cách thức tiêu diệt tôn giáo nói chung và công giáo nói riêng.

Thành tích đầu tiên của UBLL, tiếp tay đảng mở đầu đàn áp Công Giáo miền Bắc:

Ngày 24 tháng 12 năm 1959 tức là chiều hôm trước Noel, trong khi trang trí nhà thờ Chính tòa chuẩn đón lễ, thì Ủy ban Liên lạc Công giáo, tức là Ủy Ban Đoàn Kết Công giáo đến gây chuyện. Linh Mục La San Nguyễn Văn Vinh, chính xứ Nhà thờ chính tòa Hà nội kịch liệt phản đối. Hậu quả, Cha Vinh cùng với một nhiều  anh chị em trong ca đoàn nhà thờ, có một số em chỉ 15, 16 tuổi bị bắt đi tù.

Cha chính Vinh là nạn nhân đầu tiên trong chính sách xóa sổ thầm lặng đạo Công giáo mà chính quyền Hà Nội qua tay sai UBLL thực hiện. LM Nguyễn Văn Vinh là người đầu tiên bị UBLL đưa vào tù và chết trong trại Cổng Trời.

 Ông Kiều Duy Vĩnh nhân chứng sống sót trong trại giam Cổng Trời, sau kể lại (2):

Bắt cha chính Vinh xong họ bắt một số ca viên. Nó thành một cái môtif tức là cái mẫu chung của những người bị bắt”. Bắt vào đây trước tiên vì những cái gì? và cuối cùng là chết thế nào. Cha chính Vinh bị bắt và cuối cùng ngài bị đày lên Cổng Trời. Cổng Trời là một cái địa ngục nhốt cho đến chết thì thôi, cùng với cha Lương Huy Hân. Cái chết của cha chính Vinh là như thế."

Cổng Trời và Gulag

Trong tác phẩm Quần Đảo Ngục Tù nổi tiếng thế giới, văn hào Aleksander I. Solzhenitsyn kể lại tỷ mỷ chế độ Liên Xô lúc ấy đã tiêu diệt đạo công giáo, nếu so sánh tình trạng bách hại tôn giáo dưới thời Stalin và cộng sản Việt Nam thì người ta sẽ ngạc nhiên vì cách thức của chúng giống nhau như hai giọt nước. Solzhenitsyn viết:

Nguyên một hôm các viên chức địa phương đột nhập Tu viện Ivangorod, cho đòi Cha Bề trên Iên. Ông này nổi danh trong Giáo hội Nga, nguyên là sĩ quan kỵ binh trong đội Ngự lâm quân Nga hoàng, được ơn trên kêu gọi nên bỏ địa vị, phân phát hết của cải cho dân nghèo rồi xin vô nhà tu kín. Họ bảo, «Mời quá bộ ra đây có chút việc»  và yêu cầu Cha Bề trên giao nạp cho họ bộ hài cốt của Thánh tử đạo Savva. Mấy người Nhà nước vô giáo đường vẫn phì phèo hút thuốc, ngay cả trước bàn thờ Chúa. Dĩ nhiên họ vẫn đội nón và một ông còn nhấc xương sọ của ông thánh lên, thử nhổ bãi nước bọt để coi Thánh có làm gì nổi. Họ còn xúc phạm nhiều nữa khiến các tu sĩ phải kéo chuông báo động. Giáo dân đổ xô tới và sau một hồi xung sát có 1 hay 2 ông thiệt mạng."

Trong nhiều năm trời, các chủng viện khắp miền Bắc Việt Nam bị đàn áp một cách có hệ thống.

Linh mục, tu sĩ cũng như chủng sinh và giáo dân đều là nạn nhân của chính sách này.(3)

Tịch thu tòa Khâm Sứ, tất cả cơ sở, thánh đường Công Giáo, cầm tù các GM, LM nào không quy thuận chúng.

Cũng như đàn anh đảng cộng sản Trung Hoa(TC) sau khi trục xuất Khâm Sứ Tòa Thánh 1951, Vụ Tôn Giáo (thuộc Công An TC) Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa lập ra Hội giáo Hữu Công Giáo Trung Hoa Yêu Nước, viết tắt là CPA (theo tiếng Anh). Dĩ nhiên là do Đảng TC quản lý với nguyên tắc Tam Tự: Tự Trị , Tự Quản và Tự Phong và hoàn toàn do chính quyền TC điều hành và sai khiến, tách ra khỏi Tòa Thánh Vatican.

Sau khi đơn phương ký hiệp định Geneve chia đôi đất nước, chiếm giữ hoàn toàn miền bắc, và một phần miền trung Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở ra, CSVN không dám hấp tấp, tạo ra quá căng thẳng dẫn đến cắt đứt quan hệ với TT Vatican. Sau Hiệp định Genève 1954, Khâm sứ Dooley vẫn tiếp tục giữ cương vị đại diện chính thức của Tòa Thánh tại Hà Nội đến tận năm 1959. Khâm sứ Dooley chấm dứt nhiệm vụ tháng 3 năm 1959 do vấn đề sức khỏe. Linh mục Driscoll – thư ký Khâm sứ – tạm thời thay thế chức năng đại diện của Khâm sứ Dooley cho tới ngày 15 tháng 9 năm 1959 thì bị phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trục xuất. Trong thời gian từ Khâm sứ Dooley ở Hà Nội, Tòa thánh vẫn không công nhận Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (4)

Âm mưu của cộng sản Bắc Việt nhằm cộng hóa GH Công Giáo hay tách CGVN ra khỏi TT Vatican, không vâng phục vị cha chung kế vị Thánh Phêrô -Ly Giáo- tạo ra một giáo hội Công Giáo trá hình là con rối của đảng csVN, phục vụ chính sách độc tài toàn trị và che dậy tội ác, góp sức vào công cuộc nô lệ hóa người dân Việt Nam đã không thành công bởi hàng giáo phẩm, các Giám Mục các giáo phận kiên trung với đức tin, vâng phục ĐTC một cách tuyệt đối. Không một Giám Mục nào ủng hộ UBLL. mà còn kiên quyết ngăn cấm các LM tham gia tổ chức này. LM nào không vâng lời thì bị vạ tuyệt thông đương nhiên. Tòa thánh thời đó cũng dứt khoát bài trừ đảng cộng sản. Đức Thánh Cha đã ban hành tông thư Divini Redemptoris (Của Đấng Cứu Thế Thần Linh). Vào ngày 15-7-1948, báo Obsservatore Romano, cơ quan ngôn luận chính thức của Toà Thánh đã đăng tải một Sắc Luật chống Cộng, nhằm công bố vạ tuyệt thông tất cả những ai «tuyên truyền các học thuyết Cộng Sản nhằm cổ võ thuyết duy vật và chống báng Kitô giáo». Vào thời điểm đó, Sắc Luật có chủ đích ra vạ tuyệt thông cho các đảng viên Đảng CS Ý.

Đức Giáo Hoàng Piô để lại lời phê phán nghiêm khắc nhất của ngài đối với «đại dịch Cộng Sản». Ngài mô tả nó bằng những dòng và những đoạn như: «cuộc đấu tranh giai cấp không ngừng nghỉ và cuộc tận diệt tuyệt đối quyền tư hữu»; «sử dụng mỗi một và mọi phương tiện, cả các phương tiện bạo động nhất»; «sự độc ác và bất nhân của nó»; «cuộc sát hại và tiêu diệt kinh hoàng»; «nó công khai thù nghịch đối với Giáo Hội Thánh Thiện và với chính Thiên Chúa»; «đặc điểm vô đạo đức và vô đạo lý của chủ nghĩa cộng sản»; «dùng bạo lực và sát hại, nó tìm cách tiêu diệt cả xã hội»; «dọn đường cho việc lật đổ và tiêu diệt xã hội»(5)

Giáo dân Miền Bắc lúc đó nhất mực âm thầm vâng theo lời dạy của các GM, tẩy chay triệt để các LM gia nhập UBLL. với bốn không, không đi nhà thờ, không nhận phép bí tích (từ LM UBLL), không ủng hộ, không tham gia BHG (giúp xứ) để chèo chống con thuyền Giáo Hội Miền Bắc giữa cơn phong ba bão táp. LM Nguyễn Ngọc Nam Phong viết, «GHCG Miền Bắc thật sự may mắn còn có được những vị mục tử mạnh mẽ, can trường như Cha Chính Nguyễn Văn Vinh, Cha Thông, Cha Oánh, Đức cố Hồng Y Trịnh Văn Căn, Đức Cha Phaolô Lê Đắc Trọng, Cha Nhân (Hà Nội), Cha Hân (Bùi Chu), Cha Hy (Thái Bình), Cha Giuse Vũ Ngọc Bích, Thầy Marcel Nguyễn Tấn Văn Dòng Chúa Cứu Thế… Nhiều người trong số các vị ấy đã phải tù đày và nhiều vị đã chết rũ tù, mất xác nơi rừng thiêng nước độc».

Chúng tôi xin ghi thêm một linh mục can trường khác nữa vào «Sổ Đoạn Trường» các vị giáo sĩ bị Cộng Sản Hà Nội bách hại trong thời kỳ này. Đó là Đức Ông Phaolô Tịnh Nguyễn Quang Thiều, linh mục Phát Diệm, biệt danh là «Cụ Sáu Việt Minh». «

Bên cạnh những vị mục tử can trường còn phải kể tới hàng trăm, hàng ngàn các ông chánh phó trương, các ông trùm họ, các ông chánh hội ca vịnh, hội thanh niên…và các giáo dân nhiệt thành đã bị nhà cầm quyền Cộng Sản bắt giữ, tù tội vì muốn trung thành với đức tin và vì lòng yêu mến Giáo Hội. Họ là những người tù không án, tự nhận mình là ‘thanh ngang của cây thập giá Chúa’ mà Tuân Nguyễn đã kể lại cho Phùng Quán với tất cả sự kính trọng và lòng ngưỡng mộ (x. Phùng Quán, Ba phút Sự thật, tr.175-184). Họ là gần 100 tù nhân được Kiều Duy Vĩnh cung kính gọi là ‘các anh hùng tử đạo’ khi bị giam chung tại trại giam Cổng trời Cán Tỷ (3). Họ cũng có thể là Thầy Cân, là Hóa, những anh em Công Giáo được nhà văn Bùi Ngọc Tấn miêu tả trong cuốn tiểu thuyết Chuyện Kể Năm 2000 với tình cảm quý mến dạt dào, vì tất cả đã sống kiên cường đúng mực, tốt với bạn tù. Có thể nói, Giáo hội Công giáo Miền Bắc không bị «

cộng sản hóa» vì đã được Chúa ban cho những vị mục tử nhân lành, những tín hữu nhiệt thành dám liều mình vì đức tin.(6)

_____________

Chú thích:

(*) Một linh mục bị vạ huyền chức (bị treo chén) là linh mục đó bị tước bỏ một phần hay toàn bộ các hoạt động thừa tác như một thành viên hàng giáo sĩ, và năng quyền của linh mục đó có thể bị giới hạn. Nói một cách đơn giản, linh mục đó không còn có thể thi hành chức vụ như một linh mục giáo xứ, không cử hành thánh lễ hay mặc lễ phục cách công khai. Mỗi trường hợp lại khác nhau, tùy thuộc vào lý do bị vạ huyền chức, và được nói trong thư của Giám mục gửi đến linh mục đó.

Giáo luật liên quan đến vấn đề này như sau:

Ðiều 1333: (1) Vạ huyền chức chỉ có thể chi phối giáo sĩ; người mắc vạ này bị cấm:

1. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền thánh chức;

2. hoặc tất cả hay vài hành vi của quyền cai trị;

3. thi hành tất cả hay vài quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với một chức vụ.

(2) Trong luật pháp hay mệnh lệnh có thể ấn định rằng, sau khi án văn tuyên kết hay tuyên bố, người bị huyền chức không thể ban hành hữu hiệu quyết định cai trị.

(3) Sự ngăn cấm chẳng bao giờ chi phối:

1. những chức vụ hay quyền cai trị nào không lệ thuộc vào quyền hành của Bề Trên thiết lập hình phạt;

2. quyền cư ngụ, nếu phạm nhân đã có chỗ ở chiếu theo chức vụ

3. quyền quản trị những tài sản gắn liền với chức vụ của người bị huyền chức, nếu là hình phạt tiền kết.

(4) Sự huyền chức nào ngăn cấm lãnh nhận lợi lộc, lương, hưu bổng, hay các thứ khác, thì cũng bao hàm nghĩa vụ phải hoàn lại mọi thứ đã lãnh nhận bất hợp pháp, cả khi vì ngay tình. https://gpbuichu.org/news/Phung-Vu/mot-linh-muc-bi-treo-chen-nghia-la-gi-5738.html

VNTB – Uỷ ban đoàn kết công giáo, công cụ đàn áp của ĐCSVN (kỳ 3)

Phan Nhân Quyền

Kỳ 3: Âm mưu và những phá hoại của UBLLCG dưới sự chỉ đạo của đảng CSVN tại Bắc Việt.

(VNTB) – Họ đã dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc cho có một số giáo dân và linh mục công khai làm Giuđa bán Chúa, bán anh em.

Mặt Trận Tổ Quốc sắp xếp một hội nghị trá hình (của những người CG yêu nước) bầu ra linh mục Vũ Xuân Kỷ làm chủ tịch, linh mục Hồ Thành Biên phó chủ tịch. Điều hành Ủy ban Liên lạc (thật ra là hoạt động dưới chỉ thị của đảng CSVN) có các linh mục Nguyễn Thế Vịnh, Phạm Quang Phước và Võ Thành Trinh làm ủy viên. (Chính 3 linh mục này sẽ là những người Đảng Cộng sản đưa ra làm nòng cốt cho Ủy ban Đoàn kết ở miền Nam sau năm 1975). Ủy ban liên lạc bị cha Phạm Hân Quynh chỉ trích nặng nề. Do đó, cha Quynh đã bị bắt và bị đi tù trong 30 năm.

Tại giáo phận Hải Phòng dưới sự cai quàn của ĐC Phaolô Maria Khuất Văn Tạo, ngài cương quyết cắt các phép (Treo Chén) đối với LM Phạm Quang Phước là cha phó giáo xứ Nam An, Hải Phòng. Và sau này trở thành quản xứ sau khi Cha Già Đa Minh Lương ở Nam Am bị đấu tố cho đến chết đói trong tù.ĐC Phaolô Maria Khuất Văn Tạo cả quyết: “Ủy ban Liên lạc Công Giáo không do Công Giáo đứng ra thành lập mà là do Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đứng ra thành lập và trả lương cho các người tham gia. Những người như Ngô Tử Hạ (chủ tịch UBLL Hà Nội) không hề đại diện cho quyền lợi của người Công Giáo Việt Nam.»  Đảng CSVN xử dụng LM Phạm Quang Phước để lôi kéo, phát triển UBLL tại GP Hải Phòng, cũng như phân hóa giáo hội, và chống đối Chủ Chăn quyết liệt khi không thể khuynh loát ngài. LM Phước hậm hực tuyên bố: «Cha Chính mời tôi về cấm phòng, tôi vâng lời, nhưng thấy Đức Cha không thay đổi thái độ, cấm phòng gì lại lễ không được làm, tội không xưng. Ở đây cấm tôi làm lễ, tôi đi Hà Nội tha hồ bánh, tha hồ rượu, khối dầu thánh. Đối với Đức Cha, tôi không có gì, tôi chỉ ở trong Ủy ban Liên lạc Công Giáo thôi. Kinh thánh có câu: Con là thầy cả dòng Melchisedech cho đến đời đời. Ai cách được chức linh mục của tôi. Tôi vẫn là linh mục của địa phận Hải Phòng, của Hội thánh. Có lời khác rằng: Dù thầy cả có tội lỗi thế nào làm lễ cũng vẫn biến bánh rượu thành Mình Thánh Máu Thánh kia mà. Tôi có tội thì tôi chịu có ai phải chịu thay tôi đâu. Đức Cha có phải chịu đỡ tôi đâu. Tôi xưng tội hàng tháng, tôi mở miệng nói một tiếng sẽ có chán thầy cả giải tội cho, còn cha Mỹ rồi sẽ chết một mình không ai làm các phép cho đâu, mà tôi về Hải Dương làm lễ lại cấm tôi. Thánh Phaolô nói trước khi chịu lễ phải xét mình xem có tội gì đã, tôi xét mình chả thấy có tội gì mà, chả cờ bạc, rượu chè, trai gái gì kia mà. Đem truyện Lutero đọc, ám chỉ thằng Phước này đấy, nhưng thằng Phước này có rối đạo đâu. Tôi có dậy có 4 Đức Chúa Giời [Trời] đâu, nếu tôi có giảng Đức Chúa Giời 4 ngôi hẳn giáo hữu họ chẳng nghe theo tôi đâu». (1)

Trong lúc giáo phận Phát Diệm cũng khốn đốn bởi chính sách tôn giáo nhất là Công Giáo được nhà cầm quyền CSVN theo đuổi rập khuôn đảng CS Trung Hoa. Có những LM, tu sĩ giáo dân làm tay sai chúng trong tổ chức UBLL tiếp tay đánh phá , gieo bao đau thương cho những mục tử nhân lành cụ thể  như ĐC Phaolô Bùi Chu Tạo giám mục chính tòa tiên khởi GP Phát Diệm (1960-1998).

Cha Phêrô  Nguyễn Văn Khải, DCCT, kể rằng :

Năm 1989 lúc tôi rời Miền Bắc để vào Sài Gòn tu học thì Giáo phận Phát Diệm chính thức chỉ còn 9 cha: Trình-Sỹ-Thiều-Vọng-Tường-Quỳnh-Phúc-Hải-Lãm.

Đã ít thì chớ, lại không được tự do làm việc. Tôi nhớ lúc tôi ở nhà thì có cha Thiều và cha Phúc đang bị nhà nước quản chế thân thể. Các cha khác không bị quản chế thân thể thì cũng bị quản chế mục vụ: các ngài chỉ được làm lễ ở nhà thờ nơi mình cư trú, nếu đến làm lễ ở nhà thờ ở xã huyện khác phải có phép của nhà cầm quyền. Phép này xin được cũng rất nhiêu khê.

Bản thân ĐC Bùi Chu Tạo lúc đó cũng ở trong tình trạng bị quản chế không tuyên bố. Nhiều lần ngài nói với tôi rằng: «Cha bây giờ như bị giam lỏng ở Nhà Chung này rồi!»

Ngài chỉ được phép ở Tòa Giám Mục và làm lễ tại Nhà thờ Chính Tòa. Ngài không được đến các giáo xứ. Dù chỉ đi thăm cũng không được chứ đừng nói là đi làm lễ. Chính vì vậy, từ năm 1957 khi ngài rời Tam Châu để xuống Phát Diệm cho đến lúc tôi rời Miền Bắc năm 1989 chưa bao giờ ngài được trở lại giáo xứ Tam Châu quê hương ngài.

Cha cũng không quên thành tích của UBLL phá giáo hội, dâng đảng. Một số Linh mục và giáo dân gia nhập cái gọi là UBLLCG của đảng tích cực theo dõi và đánh phá giáo hội. Cộng sản còn tìm cách đánh phá Giáo Hội từ bên trong.

Nhà nước cộng sản đã dụ dỗ, lôi kéo, mua chuộc cho có một số giáo dân và linh mục công khai làm Giuđa bán Chúa, bán anh em. Đó là một số giáo dân làm tai sai cho cộng sản. Số này rất hung hăng. Ngay tại thôn quê tôi, tôi cũng thấy có 2 người, trong đó có một người còn kéo cả vợ con bỏ đạo và đến chết vẫn không sám hối. Trong số khoảng 30 chục cha còn lại của Giáo phận Phát Diệm đã có 2 cha đi theo cộng sản, gia nhập Ủy ban Liên lạc Công Giáo Yêu Nước, một tổ chức ngoại vi của Đảng Cộng sản, tiền thân của Ủy ban Đoàn kết Công giáo Yêu Nước sau này, để chống phá Giáo Hội.

Đó là Cha Trinh và Cha Vịnh: Cha Vịnh từng làm Chủ tịch MTTQ Việt Nam. Đức Cha Bùi Chu Tạo đã treo chức hai cha này. Tuy nhiên với sự hậu thuẫn của nhà cầm quyền cộng sản, bất chấp lệnh cấm của Đức Cha, Cha Trinh đã tự ý chiếm nhà thờ Phúc Nhạc và Cha Vịnh đã tự ý chiếm nhà thờ Ninh Bình. Khi Nhà thờ Ninh Bình bị bỏ bom sập thì ngài về họ Chẹo dưới Ninh Bình. (2)

Tại Hà Nội LM Giuse Maria Trịnh Như Khuê được tòa thánh Vatican phong Giám mục Giám Quản Tông Tòa GP Hà Nội ngày 15/08/1950. Mặc dù theo nhận xét chung  thì Tổng Giám mục Trịnh Như Khuê qui tụ được một số Linh mục trí thức như các Linh mục Đinh Lưu Nhân và Nguyễn Văn Vinh. Họ đều du học, có thể là bậc thầy của bốn LM sau này ở Sàigòn, mà nhiều người gọi tên là «tứ nhân bang». Họ có lý tưởng vững chắc, đạo hạnh, can đảm, hy sinh, tuân phục mặc dầu bị bách hại. Trong số bốn vị trên, LM Vinh chết trong tù ở trại Cổng Trời, LM Thông 27 năm tù, hai lần lên Cổng Trời, được thả ra và chết sau đó vài năm. LM Quynh và Oánh đều bị quản thúc trên 20 năm.

Khổ nạn chung của GHCGVN dưới sự bách hại của CSVN là UBLLCG như công cụ đàn áp (dùng LM, tu sĩ CG đễ đàn áp Công Giáo). Chính UBLLCG đã cố ý gây ra sự tiếm quyền tại nhà thờ chính tòa Hà Nội Noel 1958. Làm cớ cho nhà cầm quyền bỏ tù cha chính Gioan Lasan Nguyễn Văn Vinh và ngài đã chết rũ tù tại trại giam Cổng Trời.

Hà Nội đã chớm cái phong trào Liên Lạc Công Giáo (Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo hiện nay). Có ông Bưởi, ông Ngô Tử Hạ là những tiêu biểu Công Giáo trí thức tiến bộ. Ông Bưởi tự xưng là Trùm xứ Nhà Thờ Lớn Hà Nội, đứng đầu nhóm cấp tiến bình dân, và dĩ nhiên là hung hăng.

Ở Phương Tây người ta chỉ chú ý cái lễ đêm Noel, bởi đó sửa soạn cờ quạt, đèn sáng cho lễ đêm, dải sao lớn vv…Ở Việt Nam, thì các thành phố mới có vẻ rầm rộ vào lễ đêm. Ở Hà Nội, lễ đêm chỉ người ngoại quốc mới được vào nhà thờ. Người Việt Nam cố gắng dự lễ âm thầm ở sân trường Dũng Lạc.

Ngày 24.12.1958 chính quyền cho giăng cờ ở trước cửa nhà Nhà Thờ Lớn. Dĩ nhiên là cờ Hội Thánh và cờ Quốc Gia. Không bàn hỏi, thông báo cho ai trong nhà thờ biết, cứ tự động làm. Lúc đó người Công Giáo đề phòng các phong trào Công Giáo tự trị tách rời khỏi Vatican, như các nước cộng sản quen làm. Tự động đem cờ quạt đèn đến trang trí, không báo cho cha xứ, có nghĩa là chiếm nhà thờ. Mọi người nghĩ thế. Để phản ứng lại, cha xứ Nhà Thờ Lớn, cha Căn (sau này là Đức Hồng Y Giuse Maria Trịnh Văn Căn) cho kéo tất cả các chuông nhà thờ trong vòng một tiếng đồng hồ để báo động. Cờ dây đã được mắc, cha Vinh trong Tòa Giám Mục chạy ra. Ngài nóng tính, tự tay giật các dây cờ, trèo lên thang giật các băng cờ trước nhà thờ. Có người phản đối Cha nói việc lễ, tự do tín ngưỡng, ai làm gì thì làm. Cha Vinh bắt chéo hai tay ra đằng sau, nói tự do thế này. Nghĩa là tự do bị trói giật cánh khuỷu. Chuông nhà thờ cứ réo lên, cho đến khi dẹp hết cờ quạt, các băng khẩu hiệu. (3)

Nói đến thành tích tay sai của UBLLCG tại TGP Hà Nội thì không thể không kể đến Dòng Chúa Cứu Thế Thái Hà. Cha Phêrô Khải tiếp:

«

Sau khi Thầy Clemente Đạt bị bắt, cũng là thời kỳ khó khăn. Chỉ còn một mình, tôi bị cấm không được đi đâu ra khỏi Hà Nội. Xin thì cho, nhưng có người theo dõi. Dù là đi không xa. Đến  nhà thờ Hàng Bột để giúp giải tội với cha Chiễu. Tôi cũng bị nhóm UBLLCG (tội gọi là nhóm lệch lạc CG) theo sát, khiến tôi phải ra về cửa sau. GX Thái Hà bị coi như là ổ gián điệp, người ra vào thăm tôi đều bị ghi số xe. Tôi bị cô lập. Không mấy ai dám đến thăm. Chỉ còn lại hai người thân cận: ông bõ, và ông kéo chuông… Trong những năm chờ đợi giải quyết việc Giám mục Phó Phát Diệm thì xảy ra việc cha Nguyễn Thế Vịnh qua đời.Ngài là chủ tịch Ủy ban Liên Lạc Công Giáo, là gốc Phát Diệm, xuất thân từ Đại Chủng viện Thượng Kiệm, học trên Đức Cha Tạo 1 lớp. Trong lúc đưa xác cha Vịnh về quê quán Phát Diệm, tôi xin được quá giang xe của Ủy ban LLCG, bây giờ đã đổi thành Ủy ban Đoàn Kết Công Giáo (ĐKCG), trên xe mọi người trong Ủy ban nhìn tôi với ánh mắt không mấy thiện cảm. Đến Phát Diệm, ban tổ chức bố trí các khách về dự tang lễ cư ngụ trong một ngôi nhà ở Trì Chính. Cha già Phaolô Nguyễn Chu Trình nói nhỏ với tôi để gợi ý là cả hai chúng tôi nên vào Nhà Chung nghỉ, nhân thể vấn an Đức Cha Chính. Nhưng có một anh ĐKCG nhất định không cho tôi đi». (4)

Ngày nay có những người muốn xóa nhòa lịch sử. Nói rằng Ùy Ban Liên Lạc Công Giáo do đảng CSVN không lập ra để tiêu diệt CG (công cụ đàn áp CG), không tác hại gì nhiều đến giáo hội CG miền Bắc lúc đó. Họ muốn làm nhẹ đi vấn nạn, để xí xóa. Thực chất của UBLL không kém phần thâm hiểm, và ác hại như chủ của nó là đảng CSVN (đảng không gầy dựng và nuôi dưỡng tổ chức, cá nhân nào không có lợi cho họ, và không làm theo lệnh của họ). Những sự kiện cụ thể, được nhân chứng lịch sử kể lại. Được  nêu ra, trong bài viết này chỉ là một phần nhỏ tội ác  của CSVN và tay sai UBLL gây ra nhằm tiêu diệt CG lúc bấy giờ. GH không bị diệt vong hay trở thành Cộng Giáo như Hán Cộng giáo (Hội Công Giáo yêu nước Tam Tự của đảng TC).

Ngoài ơn Chúa gìn giữ còn nhờ ba yếu tố quyết định: (đã nói trong bài trước)

– Giáo Huấn nghiêm nhặt đúng đắn của tòa thánh Vatican.

– Tất cả Giám Mục các giáo phận đồng lòng trung thành với đức tin tinh tuyền, giữ vững căn tính Công Giáo, yêu mến đàn chiên của Chúa. Các ngài không ngại hy sinh, gian khổ, đồng sinh đồng tử với đàn chiên, sẵn sàng chết để bảo vệ họ, như Mục Tử Tốt Lành Giêsu.

– Đàn Chiên yêu mến, trung thành với giáo huấn của Giám Mục. Họ cũng dám xả thân để bảo vệ chủ chăn.

Làm nên một giáo hội hiệp nhất đúng như lời Chúa dạy là cho UBLL bó tay vì bị cô lập, không thể  thực thi lệnh của đảng là xé nát sự hiệp nhất của GHCG. Đảng CSVN cũng không thể biến CG thành một giáo hội CG trá hình như các tôn giáo khác.

____________

Ghi chú:

1. http://www.vietcatholic.net/News/Html/249552.htm

2. https://nhathothaiha.net/nho-vi-muc-tu-nhan-lanh-duc-cha-phaolo-bui-chu-tao-1909-2001-giam-muc-phat-diem-phan-2/

3. Chứng từ của GM Phaolo Lê Đắc Trọng/ http://www.vietcatholic.net/News/Html/54286.htm

4. http://www.giadinhanphong.com/trang-chinh-2/bai-viet/vu-sinh-hien-cau-chuyen-cua-nhung-cay-dai-thu—cha-gia-vu-ngoc-bich-cssr.

VNTB – Ủy ban Đoàn kết Công giáo – Công cụ đàn áp của ĐCSVN – Bài 4

Phan Nhân Quyền

(VNTB) – «Ôi ! thế là Đoàn Kết đã ngự trong Tòa rồi ….»

Bài 4: Uỷ ban Liên lạc Công giáo hồi sinh và đổi tên thành «Uỷ ban Đoàn kết Công giáo yêu nước»

Nhắc lại bài 3, đã chỉ ra thất bại của đảng CSVN, kế hoạch lập ra một giáo hội CG tự trị như các nước CS khác (tiếm danh CG, do đảng chỉ đạo). Với sự tiếp tay của UBLLCG quy tụ được một số LM, Tu Sĩ và giáo dân phản đạo. Không phải vì đảng CSVN và tay sai kém thâm độc nhưng nhờ TT Vatican, các GM, hầu hết giáo dân giữ vững tình hiệp nhất và kiên vững, không ngại hy sinh trung thành với đức tin Công Giáo thánh thiện, tinh tuyền.

Đức Cha Phaolo Lê Đắc Trọng kể chuyện. Những giáo sứ do những LM trong UBLLCG trông coi, hoang tàn và tiêu điều. Vì giáo dân không tham gia, đóng góp và tẩy chay cha sứ. Nhiều LM phải sống một mình , nhờ vào trợ cấp của nhà cầm quyền, tự đi chợ, tự nấu ăn và tự túc mọi chuyện chẳng ai giúp. Do đó đến sau 1975, UBLLCG ngoài bắc, không còn sức sống, đang cơn hấp hối.

Trong khi ở miền Nam VN, một số LM tập kết ra Bắc như : LM Hồ thanh Biên, Lương minh Ký, Võ thành Trinh, Nguyễn bá Lễ. Ngoài ra có LM không tập kết ra bắc ở lại miền nam «nằm vùng». Lập ra cái gọi là «Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước». Và sau đó gia nhập  Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tổ chức này lợi dụng hiến pháp tự do dân chủ cùa VNCH và núp bóng Công giáo, ủng hộ MTGPMN chống lại chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Gồm có một số LM tích cực, cầm đầu như: LM Huỳnh Công Minh, Trương Bá Cần, Thanh Lãng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Vương Đình Bích, Nguyễn Quang Lãm, Vương Đình Ái, Nguyễn Nghị …..

Sau khi cưỡng chiếm miền Nam, CSVN và cùng với UBLLCG đã lợi dụng được tình thế chính trị và tâm lý của giáo đoàn Công Giáo miền nam, mặc cảm, thua cuộc, bỏ chạy và sợ hãi. ĐC Phao Lô Lê Đắc Trọng viết: «Người Công giáo miền bắc chịu bao khốn khó, tù đầy cũng là do nhóm này… Cũng may là những linh mục hay giáo dân lãnh đạo được lựa chọn, ở những thành phần không đạo đức, nên ít ai theo; nhưng họ lại có quyền của nhà nước, mà họ dốt nát, nên càng dữ tợn, người ta vừa sợ, vừa biết bộ mặt của họ. Vì thế, nó đã sắp tàn nếu không có miền Nam đến tiếp sức và hồi phục nó dưới nhãn hiệu mới “Ủy ban Đoàn kết”. Uỷ ban này có lãnh đạo trí thức (các linh mục bằng cấp), tìm được đất màu mỡ ở miền Nam và sống mạnh, nhờ vào việc thay đổi chiến thuật…». (HK toàn tập, Phần Hai – Giáo Hội CGVN Trước Cơn Bão Thời Đại, trang 260-261).

Dù là lấy danh hiệu gì, thay họ đổi tên bao nhiêu lần thì UBĐKCG cũng chỉ là tập hợp những tên Giuda thời đại, là tay sai một thứ công cụ của đảng CSVN xử dụng để đàn áp Công Giáo, kiểu «Lấy củi đậu, nấu đậu» để che mắt thế giới, tránh né bị chỉ trích vi phạm nhân quyền. Sau khi chiếm được MNVN, Cộng sản say men chiến thắng, những tên Giuda thời nay cũng dựa hơi thừa thắng xông lên. 1975 là thời điểm chủ nghĩa CS quốc tế, cầm đầu là Liên Xô, và Trung Cộng cũng đang cao trào. CSVN ra tay đàn áp khốc liệt, chủ trương tiêu diệt các tôn giáo không loại trừ Công Giáo. Nhà thờ, đền Chùa, thánh thất, các công trình tôn giáo không bị phá bỏ cũng bị chiếm đoạt dưới mọi hình thức. Học theo các đàn anh CS quốc tế, CSVN thu dụng những thành phẩn Tu Sĩ hèn nhát, ích kỷ, chỉ mưu cầu quyền thế lợi lộc cá nhân (tất nhiên được che đậy kỹ càng) phản lại lý tưởng tôn giáo của họ. CSVN lập ra những «tôn giáo» song song, một bản copy hình thức, tiếm danh tôn giáo chân truyền: như Phật Giáo Việt Nam, Cao Đài chi phái 1997, Phật giáo Hòa Hảo, Tin Lành quốc doanh. Những tổ chức này trực thuộc Mặt Trận Tổ Quốc (MTTQ) hoàn toàn lệ thuộc đảng CSVN. Tương tự UBĐKCG cũng hoàn toàn dưới quyền điều khiển trực tiếp, nhận lệnh từ MTTQ.

Nhóm «Công Giáo Tiến Bộ» (là những LM chủ chốt trong cái gọi là «Hội Những người Công giáo kính Chúa yêu nước») họ dùng danh xưng khác đễ chiêu dụ nhưng tu sĩ, giáo dân ngây thơ nhẹ dạ. Phát động song hành 2 cuộc đấu tranh nhắm vào 2 mục tiêu: một là trục xuất Đức Khâm Sứ; hai là buộc Đức TGM Phanxicô Nguyễn Văn Thuận phải từ chức Phó Tổng Giám Mục Sài Gòn (do sắc phong của Toà Thánh ngày 25-4-1975). Nhiều sách vở đã kể về vụ Đức TGM Nguyễn Văn Thuận bởi vì Ngài quá nổi tiếng. (Giáo Hội đang xúc tiến việc tuyên thánh cho Ngài). Ở đây, chúng tôi chỉ tường thuật vụ Đức Khâm Sứ, bởi vì chủ đề loạt chuyện của chúng tôi trong sách này là của LM Vinh Sơn Trần Ngọc Thụ, bí thư Toà Khâm Sứ. Cha Thụ cũng là chứng nhân của các vụ việc xẩy ra liên quan tới Đức Khâm Sứ. Thành phần của «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» đã ký tên vào bức tâm thư «Gởi Anh Chị Em Công Giáo Miền Nam Việt nam» (nội dung cáo buộc Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre một số tội và đòi Ngài phải ra đi) gồm có 8 tổ chức:

Phong Trào Thanh Lao Công Phong Trào Công Giáo và Dân Tộc Đoàn Sinh Viên Dự Tập Dòng Chúa Cứu Thế (rất ít)

Nhóm Liên Tu Sĩ Trẻ (rất ít)

Phong Trào Công Giáo Xây Dựng Hoà Bình (ma)

Phong Trào Thanh Niên Công Giáo Đại Học (rất ít)

Tổng Đoàn Thanh Niên Công Giáo (ma)

Liên Đoàn Sinh Viên Công Giáo (rất ít)

Thực sự thì hầu hết các tổ chức kể trên chỉ có dăm ba thành viên, thậm chí chỉ là tổ chức ma mới «thành lập» hoặc là một người mà tham gia mấy tổ chức, nhưng đã được những kẻ giật dây nặn ra, cốt để gây thanh thế.

Hai thành phần chính yếu trong «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» là các linh mục và các sinh viên Công Giáo «tiến bộ». Các linh mục «tiến bộ» gồm có: Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Phan Khắc Từ, Vương Đình Bích, Thanh Lãng, Chân Tín, Nguyễn Ngọc Lan, Nguyễn Nghị, Nguyễn Thiện Toàn, Trần Viết Thọ, Nguyễn Quang Lãm, Nguyễn Văn Hoà, Hoàng Kim, Nguyễn Văn Trinh, Nguyễn Văn Huệ, Đinh Bình Định…

Đông hơn cả là nhóm sinh viên Công Giáo «tiến bộ» (không loại trừ là những cán bộ đảng viên do CSVN gài vào ). Những tay tranh đấu hung hăng nhất trong nhóm này là: Nguyễn Văn Ngọc, Đoàn Khắc Xuyên, Nguyễn Xuân Hàm, Vũ Sĩ Hùng, Nguyễn Chí Thành, Nguyễn Ziên Hồng, Phạm Văn Phổ, Nguyễn Văn Hồng, Trịnh Viết Trung, Dương Thị Hoè, Phi Nga…

(Xem Công Giáo Miền Nam Việt Nam sau 30-4-1975 của Nguyễn Antôn. Dân Chúa xuất bản 1988. Trang 225).

Theo một số tác giả từng là chứng nhân tình hình sau 30-4-1975 thì Cộng Sản đã dùng chiến thuật dùng chính người Công Giáo để đánh phá Giáo Hội Công Giáo Miền Nam, mà tên giáo gian đầu sỏ chính là Nguyễn Đình Đầu.

Một trong số các tác giả ấy là Lữ Giang, tức thẩm phán Nguyễn Cần (VNCH), đã viết: «Nguyễn Đình Đầu, một cán bộ Việt Cộng nội tuyến trong hàng ngũ Công Giáo, ở trong nhóm Sống Đạo, đã đứng đàng sau sắp xếp và tổ chức các trận đánh phá này» (Lữ Giang. Những Bí Ẩn Đàng Sau Các Cuộc Thánh Chiến Tại Việt Nam. 1994. Trang 200)…

Ông viết tiếp: «Trong cuốn “30 tháng 4” do nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh ấn hành năm 1985, ký giả Võ Trần Nhã của Việt Cộng cho biết Nguyễn Đình Đầu là người yểm trợ đắc lực cho việc đưa miền Nam vào tay Cộng Sản» và «… Sau khi Việt Cộng chiếm miền Nam, bên ngoài Nguyễn Đình Đầu không giữ chức vụ gì quan trọng, nhưng bên trong Nguyễn Đình Đầu đã đứng ra tổ chức và giật giây các chiến dịch chống phá Giáo Hội Công Giáo. Từ vụ hô hào trục xuất Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre, đòi bãi chức Đức Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Thuận, đến việc lên án các vụ Vinh Sơn, Đắc Lộ, Dòng Đồng Công… đều có bàn tay thúc đẩy của Nguyễn Đình Đầu» (Lữ Giang. Sđd. Trang 220, 221). Để đạt mục tiêu trục xuất Đức Khâm Sứ, «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» đã tổ chức 3 cuộc biểu tình đấu tranh:

– Lần thứ nhất: Ngày 02-4-1975, họ kéo tới biểu tình trước Toà Khâm Sứ đường Hai Bà Trưng. Họ đòi Đức Khâm Sứ phải ra đi. Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre vẫn bình tĩnh, nhẫn nại và can đảm. Ngài từ chối yêu sách của nhóm tranh đấu và dứt khoát không rời khỏi Việt Nam nếu chưa có lệnh của Toà Thánh. Lúc này, Cộng Sản chưa chiếm được Sài Gòn, cho nên «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» chưa có hành động thô bạo.

– Lần thứ hai: Ngày 14-5-1975, tức là lúc Miền Nam đã lọt vào tay Cộng Sản, nhóm đấu tranh tỏ ra hết sức hung bạo. Đi đầu là Nguyễn Phúc Khánh, bọn họ trèo tường đột nhập Toà Khâm Sứ, dùng búa đập bể ổ khoá cổng để đám đông tràn vào. Mấy tay xông xáo hơn đã trèo lên mái nhà căng biểu ngữ và hạ cờ Toà Thánh xuống. Bọn họ dùng lời lẽ của phường bất hảo để thoá mạ, hò hét. Mỗi lần hô «Đả đảo! Đả đảo!», «Henri Lemaitre cút đi, cút đi…!» thì cả bọn đồng loạt giơ lên cao những nắm đấm, y hệt một hoạt cảnh bần cố nông đấu tố địa chủ ở Miền Bắc hồi 1954. Sau đó, họ dùng vũ lực xô đẩy Đức Khâm Sứ, linh mục phụ tá nguời Ba Lan và linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ ra khỏi cổng Toà Khâm Sứ, rồi đóng cửa lại.

Trong đợt đấu tranh bạo động này, người ta nhận diện 3 linh mục nổi bật: LM Phan Khắc Từ xách động bên trong Toà Khâm Sứ, LM Huỳnh Công Minh chụp hình liên tục (để báo cáo), còn LM Thanh Lãng thì đứng bên kia đường để «lược trận». (2)

Rập theo chủ trương của Cộng Sản là dùng bất cứ phương tiện nào miễn là đạt mục đích. Trong những lần đối thoại giữa đôi bên, những tay cầm đầu «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» bất chấp tất cả, đã dám đe doạ Đức Khâm Sứ: «…nếu Đức Khâm Sứ không chịu từ chức và ra đi, thì người ta bắt buộc phải dùng đến một biện pháp “rất đáng tiếc”». (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 220).

– Lần thứ ba: Tối ngày 03-6-1975, «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» lại tổ chức biểu tình tại Toà Khâm Sứ.

Lần này xẩy một sự việc đau lòng. Đó là khi nghe tin Toà Khâm Sứ lại bị «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» quậy phá, hàng ngàn giáo dân trẻ thuộc giáo xứ Bùi Phát kéo nhau đi giải vây cho Đức Khâm Sứ. Đoàn người bị bộ đội Cộng Sản ngăn chặn tại cầu Trương Minh Giảng, một giáo dân bị bắn chết, LM Vũ Bình Định, phó xứ Bùi Phát, bị bắt giữ.

Chiến dịch đánh phá của «Nhóm Công Giáo Tiến Bộ» đã lộ nguyên hình họ là những tên «Giu Đa bán Chúa» bởi vì hành động của họ tạo nên cái cớ rất tốt, rất đúng lúc để chính quyền Cộng Sản ra tay. Thật vậy, ngay sáng hôm sau, ngày 04-6-1975, Bộ Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời MNVN đã mời Đức Khâm Sứ Henri Lemaitre đến để bảo cho biết: «Ngài nên lánh khỏi Việt Nam trong một thời gian, và càng sớm càng tốt, nếu không sự hiện diện của Ngài sẽ không còn được bảo đảm» (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 221). Theo ngôn ngữ ngoại giao phải hiểu đây là lệnh trục xuất. Đức Khâm Sứ phải lấy máy bay để rời khỏi Sài Gòn vào hôm sau 05-6-1976.

Đức Khâm Sứ đi rồi, linh mục phụ tá người Ba Lan yêu cầu linh mục bí thư Trần Ngọc Thụ phải vào ở thường trực trong Toà Khâm Sứ để phụ với ông đối phó với tình hình mới.

Nghe biết tin này, từ Vatican, Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh Toà Thánh Jean Villot gửi cho Bộ Trưởng Ngoại Giao Chính Phủ Cách Mạng Lâm Thời Cộng Hoà MNVN một bức thư nói: «… rất đau lòng khi hay tin… và sẵn sàng mở những cuộc tiếp xúc cần thiết…» (Nguyễn Antôn. Sđd. Trang 222).

* http://vietcatholic.org/NewsComposer/Home/Article/221147

Trên đây là chiến công đầu tiên của UBDKCG (lúc còn chưa đổi tên ) công khai chống lại giáo hội CGVN, dâng đảng làm quà mừng chiếm được MNVN, thống nhất quyền thống trị của đảng CSVN trên cả nước vực dậy tinh thần cho UBLLCG ở Bắc Việt. Để cùng nhau cung cúc tận tụy, phục vụ csVN, cùng tiến đến thống nhất dưới danh xưng Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo Yêu Nước . Ngày 10 tháng 11 năm 1983, quyết định thành lập Ủy ban đoàn kết Công giáo yêu nước Việt Nam. Chủ tịch là linh mục Nguyễn Thế Vịnh, các phó chủ tịch gồm các linh mục Phạm Quang Phước,  Phêrô Võ Thành Trinh , Vương Đình Ái, Huỳnh Công Minh.

Bắt đầu từ thời điểm đó UBĐKCG với những thành phần LM, Tu Sĩ, và Giáo dân phản lại GHCGVN, chính thức tiếp tay CSVN kiểm soát, khống chế TGM Phao lô Nguyễn Văn bình và các đời TGM sau này. Đến nỗi Cố GM Phaolô Lê Đắc Trọng phải than: «Ôi ! thế là Đoàn Kết đã ngự trong Tòa rồi ….» Đức Cha nói thế này  «Một Đức Giám Mục nói về Tổng Đại Diện của mình đang thao túng mọi việc trong Giáo phận mà vị đó đã là và nay vẫn còn tinh thần patriot, Toà Thánh đã biết, dư luận chống đối, muốn vị đó từ chức». Đức Giám Mục nói: «Ông ấy tốt, giúp nhiều việc, làm sao bãi chức ông được. Khi nào tôi chết, tức khắc ông ấy hết quyền». Bi đát làm sao! Truyện thật 100%! Những ấn loát muốn được ra mắt, phải dán nhãn hiệu «Đoàn Kết» Các tác phẩm mất giá một phần, bị nghi ngờ. Nay dưới nhãn hiệu «Xuất bản của Toà Tổng Giám Mục».

Đức cha cay đắng kết luận: «Lãnh tụ đã vào ngự toà rồi!»; (trang 261-262 hồi ký GM Phaolo Lê Đ Trọng ) như thế mọi người hiểu rằng TGM nào rồi? Tổng đại diện HCM còn ai vào đây (được mệnh danh là TGM không ngôi ).

*** https://www.saigonecho.org/main/doisong/tongiao/32839-phaolo-le- c-trng.html

Đương nhiên những chuyện như thế TGM không dám công khai tố cáo với công luận với giáo dân. Ép buộc TGM từ bỏ tên cũ TGP Sài Gòn.

Phải lấy tên của một tên vô thần, tay sai CS quốc tế, giết dân lành không chớp mắt, rước chủ nghĩa Cộng Sản tàn độc chống lại Thiên Chúa, vào cưỡi đầu cưỡi cổ dân tộc khốn khổ Việt Nam. Lấy Hồ Chí Minh đặt tên cho TGP (chỉ có TGM được yêu cầu Tòa Thánh đổi tên).

Ôi! xấu hổ thay. Cha Andrew Nguyễn Hữu Lễ than: «Tôi là một LM Công Giáo, rất là xấu hổ, đau đớn việc một Tổng Giáo Phận của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam phải mang tên của Hồ Chí Minh là lãnh tụ của một chế độ đã và đang thẳng tay đàn áp tất cả các tôn giáo tại Việt Nam, là một điều đau khổ và tủi nhục cho những người Công giáo Việt Nam chân chính. Đã 29 năm qua, những người Công giáo Việt Nam phải cúi đầu im lặng trước tình trạng này dưới áp lực của một số giáo sĩ trong Tổng Giáo Phận Sài Gòn cấu kết với chính quyền Cộng sản gây ra.»

*** http://www.tonggiaophansaigon.org/index.html

Kỳ 5: Những thành tích chống phá GHCGVN của UBĐKCG. 15/08/2023 (nhớ 48 năm ngày nhóm Giuda thời nay giao nộp TGM phó FX Thuận cho CSVN)

Phannhanquyen@gmail.com

(*) Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả

Tin Bài Liên Quan:

VNTB – Ủy Ban Đoàn Kết Công Giáo: công cụ của Đảng Cộng Sản (bài 1)

VNTB – Ủy ban Đoàn kết Công giáo: công cụ đàn áp của ĐCSVN (bài 2)

VNTB – Đảng tự xử đi!

VNTB – Đảng không ngừng sử dụng bạo lực đàn áp nhân dân

No comments:

Post a Comment