Sức
mạnh của chủ nghĩa ngu dân
https://vietbao.com/a223646/suc-manh-cua-chu-nghia-ngu-dan
Sơn Diệu Mai
(Dương Thu Hương)
Vốn thích nhạc không lời nhưng đôi khi tôi vẫn nhớ về một câu hát cũ, «Anh ở đầu sông, em cuối sông. Chung nhau dòng nước Vàm Cỏ Đông…» Lãng mạn sao, những cặp tình nhân cùng uống chung một dòng nước. Và hạnh phúc thay những kẻ có thể sống cả đời bên một con sông êm đềm, qua những mùa lúa chín không tiếng súng, những trưa hè có thể nép mình dưới bóng các rặng cây. Nhưng đó là chuyện cổ tích.
Lịch sử cận đại của người Việt Nam đã
diễn ra trong khói bom và tiếng nổ của đạn pháo. Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ chia
cắt đến tận lòng sâu của mỗi gia đình. Sự nhầm lẫn, cự bất khả tri không chỉ
xẩy ra giữa hai nền văn hoá Đông-Tây mà còn xẩy ra ngay giữa lòng dân tộc Việt,
giữa các thành viên trong một gia đình, một dòng họ, giữa miền Bắc và miền Nam,
giữa bên thắng cuộc và bên thua cuộc, giữa người trong nước và những người sống
ngoài biên giới… Tóm lại, những người Việt cũng bị chia cách bởi những con
sông. Những con sông thiếu vắng những cây cầu
Khoảng cách giữa người với người có thể
còn dài rộng hơn sông, sâu hơn vực thẳm, thế nên, dù trên địa hạt văn chương,
tôi coi Anbert Camus cao hơn hẳn Jean Paul Sartre, tôi vẫn phải công nhận câu
nói nổi tiếng của Sartre là một nghiệm sinh có tính nhân loại, «Tha nhân là địa ngục của ta.»
Đây là kinh nghiệm của chính tôi.
Năm 1994, tôi sang Pháp lần đầu, được một
nhóm «Việt kiều yêu nước» đón tiếp.
Có lẽ tên ấy được đặt ra khi nhóm này tham gia vào phong trào chống chiến tranh
và người cầm đầu nhóm ấy đã từng là phiên dịch cho ông Lê Đức Thọ trong các hội
nghị đàm phán hưu chiến ở Paris. Khoảng năm 1990, cũng nhóm này đứng lên lấy
chữ ký của Việt kiều trí thức ở Mỹ, Đức, Úc và Pháp trong bản kiến nghị yêu cầu
nhà nước và đảng cộng sản Việt Nam mở rộng dân chủ. Sau bản kiến nghị ấy, họ bị
cấm về nước một thời gian khá dài, thậm chí còn bị gọi là «các phần tử phản động».
Như thế, phải hiểu là giữa nhóm Việt kiều
này với tôi có chung mục đích tranh đấu cho quyền sống của người dân Việt Nam.
Có lẽ cũng vì lý do ấy, họ đón tôi, ít nhất đấy là điều tôi nghĩ. Cuộc đón tiếp
diễn ra nồng nhiệt, dường như mang mầu sắc bạn hữu. Tuy nhiên, chỉ một thời
gian sau, tôi nhận thấy giữa họ với tôi có rất nhiều điểm bất đồng, đặc biệt là
sự nhìn nhận về cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Tôi tự nhủ,
«Người
ta sống trên đời, thường tụ thành bè, còn bạn là thứ quý hiếm, nó còn quý hiếm
hơn tình yêu vì không có bệ đỡ tình dục. Tình bạn đòi hỏi một sự cảm thông sâu
sắc, những phẩm chất tương đồng, và cơ duyên để có thểcùng nhìn về một hướng,
cùng đi theo một ngả. Vì lẽ đó, tình bạn không thể có được một cách dễ dãi.
Không có thứ tình cảm nào không cần thử thách, cho dù là tình yêu, tình bạn hay
tình đồng đội, tất thảy đều cần phải nung qua lửa mới biết vàng thau».
Nghĩ thế, tôi chọn thái độ im lặng, lảng
tránh các cuộc tranh cãi, vì nếu không là bạn, hà tất phí nước bọt để đôi co?
Tôi biết rõ rằng, đối với nhóm Việt kiều
này cuộc chiến tranh chống Mỹ là cần thiết, là niềm kiêu hãnh, là đài vinh
quang của dân tộc Việt Nam. Đối với tôi, đó là sự nhầm lẫn lớn nhất trong lịch
sử, là cuộc chiến tranh ngu xuẩn nhất, tàn khốc nhất đã xảy ra trong một tình
thế đen trắng lẫn lộn, các khái niệm bị đánh tráo, kẻ tham gia cuộc chiến ởphía
Bắc nhầm lẫn do trói buộc bởi ngôn từ, kẻ tham chiến ở phương Nam bị cuốn vào
dòng chảy của cuộc Chiến tranh Lạnh, và cả hai bên đều bị đặt vào thế đã rồi.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ là bài học đau
đớn nhất, nhục nhã nhất cho dân tộc Việt Nam, mà kẻ chịu trách nhiệm không chỉ
là người Mỹ mà còn là chính những người lãnh đạo cộng sản phía Bắc. Trong cuộc
chiến tranh ấy, dân tộc Việt tự biến mình thành vật đệm giữa hai toa tầu, là
đám lính đánh thuê cho hai hệ thống tư tưởng trái chiều đang tiến hành cuộc
chiến tranh Lạnh. Trong suốt một thập kỷ, nước Việt Nam đã thực sự biến thành
cái cối xay thịt khổng lồ nhất trong lịch sử của toàn thể loài người. Vì lẽ ấy,
theo tôi, cả người thắng lẫn người thua phải biết sám hối, và nếu muốn lật
trang cho lịch sử đất nước, trước hết kẻ thắng phải biết câm mồm lại đừng
huyênh hoang nữa; còn kẻ thua cũng phải biết câm mồm lại, thôi chửi rủa, cả hai
phía không nên tiếp tục đào bới cái thây ma lên mà ngửi. Nếu không đủ can đảm
nhìn nhận vấn đề như nó vốn thế, họ chỉ còn là đám thú rừng bị lọt xuống một
cái bẫy của lịch sử và không bao giờ có thể nhẩy lên khỏi hố sâu.
Năm 2005, tôi trở lại Pháp.
Nhóm «Việt
kiều yêu nước» chủ động mời tôi đến ăn cơm tối với họ để trao đổi tình
hình. Tôi nhận lời. Bữa cơm ấy diễn ra ở một quán ăn thuộc quận 13. Trước khi
đến Paris, tôi đã ở Turin (Ý) một tuần. Trong tuần lễ đó, khá nhiều báo Ý đã
phỏng vấn tôi và đã đăng bài tức khắc. Một trong số các bài báo ấy, có đề tựa «Mười triệu người chết trong cuộc chiến Việt
Nam».
Trong các cuộc phỏng vấn tại Turin, tôi
đã kể lại hai điều:
- Thứ nhất, khi làm người viết thuê cho
các ông tướng, tôi được nghe họ nói với nhau: Chúng ta chỉ công bố con số thật
sự khi người Mỹ bồi thường chiến tranh. Như thế, con số phía Mỹ đưa ra (khoảng
5 triệu tử vong) lẫn con số chính quyền Việt Nam đưa ra (hai triệu rưỡi) đều là
số sai sự thật.
- Thứ hai, chỉ khi đến Turin tôi mới biết
lính các nước chết ra sao và nhờ có sự so sánh ấy, tôi mới biết thân phận người
lính và người dân Việt Nam đau khổ đến mức nào. Năm 2005, cuộc chiến tranh đang
xảy ra ở Iraq. Báo mỗi ngày đều đăng tin bao nhiêu lính Mỹ, bao nhiêu lính Iraq
tử vong. Nếu con số đó chạm tới năm chục đã khiến các nhà báo làm rộn lên, chất
vấn tổng thống. Khi số tử vong chạm đến số 100 thì sự căng thẳng trong chính
trường đã khiến Nhà Trắng điên đầu. Trong chiến tranh Việt-Mỹ, mỗi lần B52 bay
qua, chỉ hai ba phút, dân thường, thanh niên xung phong chết hai trăm, ba bốn
trăm, thậm chí nơi đông hơn sáu trăm người nhưng không có một dòng trên báo,
không một câu trên đài phát thanh. Không ai hay biết, kể cả người Việt lẫn
người nước ngoài.
Tôi nói với các nhà báo Ý:
«Tới
tận năm nay, gần sáu mươi tuổi tôi mới thấm thía sự khác biệt giữa kiếp người.
Nhờ đọc báo phương Tây, tôi mới biết là người Mỹ và người Iraq chết như người,
chết theo kiểu người. Chúng tôi, những người Việt Nam, chúng tôi chết như kiến,
chúng tôi chết như ruồi, chúng tôi chết như lá khô rụng, cái chết của chúng tôi
hoà lẫn bùn đen, và tan trong câm lặng.»
Vì ở Turin có những Việt kiều liên hệ
chặt chẽ với nhóm «Việt kiều yêu nước»
ở Paris và gửi báo cho họ nên trong bữa cơm tối hôm ấy, tôi bắt buộc phải bàn
cãi với họ về chủ đề chiến tranh Việt-Mỹ. Tôi đã thuật lại cho họ nghe sự tổn
thất to lớn của dân tộc khi những người lãnh đạo mắc chứng vĩ cuồng. Rất nhiều
trận xảy ra khi lực lượng trinh sát thăm dò địa hình địa vật không kỹ, bộ phận
hậu cần chuẩn bị khí tài chưa đủ nhưng cấp chỉ huy ham lập thành tích nên cứ
đẩy lính ra chiến trường, kết quả là đại bại. Trong khi ở chiến trường xác lính
chết ngập suối, nước không chảy được, chim cắt chim kền kền ăn thịt no đến mức
không bay lên nổi, lệnh ở Hà Nội vẫn tiếp tục giục tấn công. May mắn là còn có
những vị tướng biết thương dân, thương lính, khóc đỏ mắt, quyết định rút quân
và làm báo cáo giả để gỡ tội.
Hồi ấy, tổng tư lệnh của cuộc chiến là Lê
Duẩn, đã đưa ra khẩu hiệu:
«Dân
tộc chúng ta là dân tộc anh hùng, chỉ có thắng không có thua.
Quân đội chúng ta là quân đội anh hùng, chỉ có tiến không có lùi.»
Điều đó có nghĩa: Chỉ tiến công, không
phòng thủ!
Xưa nay, trong lịch sử ngàn năm chống
ngoại xâm của dân tộc, bao giờ chúng ta cũng lùi về rừng núi để chờ thời gian
mài mòn lòng kiêu ngạo lẫn ý chí quân địch, cũng là để khí hậu nhiệt đới khắc
nghiệt quật ngã chúng, cũng là để củng cố quân đội rồi chờ thời cơ thuận lợi
mới huy động binh lính và dân chúng tổng tấn công. Khẩu hiệu của ông Lê Duẩn
đưa ra là một sự sáng tạo thuần tuý, một ý thơ bay bổng, xuất phát từ tham vọng
và lòng kiêu mạn cộng sản. Nhưng thơ phú là thứ chỉ để ngâm ngợi khi gió mát
trăng thanh, thơ mà trà trộn với chiến tranh nó biến thành núi xương sông máu.
Đám tướng lĩnh không dám tuyên bố thẳng
thừng, nhưng đều hiểu ngầm rằng lãnh tụ của họ là một kẻ vĩ cuồng.
Nhóm «Việt
kiều yêu nước» ở Paris nghe tôi nói xong thì hai nhân vật chủ chốt phản ứng
dữ dội. Ông X bảo:
- Mục tiêu biện minh cho phương pháp.
Muốn thắng cuộc trong chiến tranh thì phải chấp nhận tất cả.
Ông Y phản ứng với con số Mười triệu:
- Con số đó không thật. Ở nước Pháp chúng
tôi có các biện pháp khoa học về dân số để chứng mình là con số ấy sai. Làm sao
chị có thể nghe theo mấy thằng tướng ngu ấy được?
Tôi im lặng không đáp. Nhưng hôm sau, tôi
có nhờ ông Phan Huy Đường, lúc đó còn dịch sách của tôi, nói lại với ông Y:
- Nhờ Đường nói với ông bạn của Đường là
về Việt Nam chớ mở mồm mà bảo mấy ông tướng là ngu. Bởi vì, rất nhiều hạ sĩ
quan thời đó (trung uý, đại uý, thiếu tá…) biết rõ rằng sinh mạng họ được bảo
tồn là nhờ những ông tướng thực sự thương lính và không ham thành tích như
tướng Vũ Lăng. Bây giờ, nếu không giải ngũ họ cũng đã leo lên đại tá hoặc thiếu
tướng. Nếu ông Y mở mồm bảo tướng của họ là thằng ngu hẳn họ sẽ cho một báng
súng vào đầu, hiền hoà nhất họ cũng khạc vào mặt.
Đấy là phản ứng duy nhất của tôi. Trong
thâm tâm, tôi quyết định chia tay.
Tôi nghĩ, đám người này cần cuộc chiến
tranh chống Mỹ như người đàn bà cần son phấn. Giữa họ với ta chẳng còn điều gì
đáng nói. Một cuộc chia tay vĩnh viễn là điều hợp lý hơn cả. Không cần kiệt
xuất thông minh, chỉ cần chịu khó quan sát sẽ thấy ngay rằng cộng đồng người
Việt ở nước Pháp là một cộng đồng không bản sắc, sống co cụm, một bầy thỏ ngoan
ngoãn đối với chính quyền. Họ không gây ra các vụ lộn xộn như người da đen và
người Arab theo đạo Hồi, nhưng họ cũng chẳng có tiếng nói, chẳng có một gương
mặt nào trên các diễn đàn quyền lực. Vì bản chất nhẫn nhịn, chịu thương chịu
khó nên họ thành công ở mức trung bình, trở thành kỹ sư, bác sĩ, nha sĩ, giáo
viên đã là giấc mơ tột đỉnh. Hội nhập vào xã hội Pháp chưa lâu, sự tự tin vào
bản thân chưa đủ, họ lại bị ám ảnh bởi thân phận lớp người Việt Nam nhập cư
trước họ, những người lính thợ bị thực dân cưỡng bức rời quê hương sang Pháp
phục vụ tại một số nhà máy làm thuốc súng để thay thế cho các công nhân Pháp ra
chiến trường.
Năm 1937, để dự phòng chiến tranh, bộ
trưởng Bộ Thuộc Địa và Quân Đội (ministre de la Colonie et de la Défense)
Georges Mandel dự tính tuyển 80.000 người Đông Dương. Tháng 6 năm 1940 đám
thanh niên Việt Nam được dẫn đến hải cảng Pháp gồm: 10.750 người trung kỳ,
7.000 người miền Bắc, 2.000 người miền nam. Đám lính thợ này đã bị đối xử như
những con vật, bị dồn vào sống trong những khu nhà tồi tàn, không điện và thiếu
nước, không nơi vệ sinh, không lò sưởi và thức ăn không đủ nửa khẩu phần. Mùa
đông, những kẻ khốn khổ ngủ trên sàn, đại tiểu tiện ngay bên ngoài cửa, người
nọ dẫm vào phân người kia. Đói khát, họ phải đào rễ củ và hái rau dại về ăn.
Cái sự thật tàn nhẫn này bị vùi trong câm lặng. Cho đến đầu thế kỷ XXI, mới có
vài nhà báo Pháp lên tiếng. Sau đó, Bernard Kouchner, vốn là một ngôi sao cánh
tả nhưng sau thất bại của Ségolen Royal trong cuộc tranh cử 2007, đã nhận lời
làm bộ trưởng bộ ngoại giao cho chính phủ Sarkozy mới chính thức lên tiếng xin
lỗi vì:
«Nước
Pháp đã đối xử với những người lính thợ Việt Nam như đối với súc vật.»
Trong thực tiễn, nước Pháp đã đối xử với
đám lính thợ Việt Nam còn tệ hơn súc vật bởi khi cưỡng chế thanh niên Việt Nam
sang Pháp, họ dồn đám người này xuống hầm tầu còn tầng trên, thoáng mát hơn thì
để dành cho… những con bò. Cái kinh nghiệm tồi tệ ấy được cấy trong tim như một
quá khứ sầu thảm, cộng đồng người Việt không thể tránh khỏi mặc cảm của những
kẻ vừa là dân nhập cư, vừa mang nhãn hiệu «Được
lôi ra từ vùng đất thuộc địa». Thế nên, cuộc sống tinh thần của họ dường
như đột ngột khởi sắc, bừng bừng ánh sáng khi cuộc chiến tranh Việt-Mỹ xẩy ra.
Tại sao?
Dễ hiểu thôi, tinh thần „Bài Mỹ” là chất
xi-măng gắn kết một số đông quốc gia trên thế giới, không chỉ các nước thuộc
phe Xã hội chủ nghĩa nhưng ngay cả các nước phương Tây. Hành vi của nước Mỹ
không chỉ gợi lên lòng căm thù nhưng kèm theo đó cả sự sợ hãi. Nếu có tiền lệ
một nước nhược tiểu bị Mỹ chà nát thì sẽ đến lượt các nước khác theo thành ngữ,
«Không bao giờ có lần thứ nhất, lần thứ
hai mà lại không có lần thứ ba».
Vả chăng, về mặt lý, cuộc chiến này không
thể biện minh, «Không một người Việt Nam
nào mang bom sang giết người Mỹ.»
Dù cộng sản hay không cộng sản thì sự
thực là không có một người Việt Nam nào cầm dao hoặc cầm súng sang tận nước Mỹ
để giết một người Mỹ, hoặc ngay đến một con bò trong trang trại Mỹ cũng không.
Vì thế, lương tâm nước Mỹ phải thức tỉnh.
Các vụ biểu tình phản đối chiến tranh trước toà Nhà Trắng của Mỹ điệp với các
cuộc biểu tình trước sứ quán Mỹ tại các nước khác. Tiếng hát và ngọn lửa tự
thiêu của trí thức Mỹ đốt nóng cả châu Mỹ La-tinh và châu Âu.
Vào thời điểm ấy, người Việt Nam nhập cư
chống chiến tranh được hưởng một sự ưu đãi vô tiền khoáng hậu. Đi đến đâu họ
cũng được thăm hỏi, giúp đỡ, được coi là người của «một dân tộc anh hùng». Và, trên các diễn đàn chống chiến tranh, đại
diện của «tổ chức Việt kiều yêu nước»
được xuất hiện bên cạnh những nhân vật quan trọng bản xứ mà nếu không nhờ ân
sủng của cuộc chiến này, không bao giờ họ có cơ hội và có tư thế tiếp xúc. Để
ví von, có thể nói rằng: Những con chim vốn nép mình trong bóng tối nhờ ánh đạn
lửa mà được nhô đầu ra và há mỏ cất tiếng kêu.
Thế nên, họ cần cuộc chiến tranh Việt-Mỹ.
Lòng ích kỷ, cái kiêu ngã của con người
quả là vô giới hạn. Những kẻ sống ở một phương trời, cần máu đồng bào phải đổ ở
một phương trời khác để tô điểm cho cuộc sống tinh thần của chính mình.
Chiến tranh thật đẹp khi nó được tạo bằng
máu xương kẻ khác!
Từ đây, tôi nghi ngờ hai từ «yêu nước». Phía sau danh từ này có vô
vàn tâm trạng, có vô số động cơ, hoặc xác thực, hoặc ngầm ẩn, hoặc có ý thức,
hoặc vô thức.
Danh từ nào cũng lập lờ và cũng có khả
năng phản lại nghĩa chính thống.
Như thế, giữa người Việt với người Việt
cũng bị chia cách bởi những con sông vô hình. Chắc chắn cũng còn khá lâu mới
bắc được cầu qua những con sông ấy.
Chiến tranh Việt-Mỹ đã qua, nhưng sau đó
không lâu cái tên Việt Nam lại dội lên trên các kênh thông tin quốc tế. Lần
này, là một thứ ồn ào dơ dáy. Chẳng còn là người anh hùng bé nhỏ dám đương đầu
với đế quốc Mỹ mà là tác giả của Khổ nạn Thuyền nhân. Ở châu Âu, phái đoàn Việt
Nam không còn được chào đón bằng cờ và hoa mà bằng cà chua và trứng thối. Tôi
nhớ rằng lần đi châu Âu, ông Võ Văn Kiệt đã hứng trọn một quả trứng thối vào
giữa mặt còn đến lượt ông Phan Văn Khải thì thoát nạn nhờ sự bố trí, dàn cảnh
công phu của cảnh sát Pháp. Sự đời vốn đổi thay như các lớp tuồng. Điều khốn
khổ cho người Việt Nam là dường như họ chỉ được biết đến trong các tình huống
đau khổ. Kể từ khi làn sóng «Thuyền nhân»
dịu đi, Việt Nam gần như chẳng còn gì để nhớ. Cứ nghe đài phương Tây thì biết,
người ta chỉ nhắc tới hai từ Việt Nam khi nhắc tới cuộc chiến tranh Việt-Mỹ,
bởi rất nhiều trí thức phương Tây, đặc biệt là các văn nghệ sĩ đã tham gia vào
phong trào chống chiến tranh và tuổi trẻ của họ gắn bó với những kỷ niệm của
một thời sôi động. Tuy nhiên, ngay cả những người kiên nhẫn nhất và hiểu biết
Việt Nam nhiều nhất cũng chưa dám quả quyết rằng họ nắm được sự thực về cuộc
chiến tranh này. Điều đó, quá khó khăn.
Một lần, một nhà văn Pháp hỏi tôi:
- Cái gì tạo nên sức mạnh của chúng mày
trong cuộc chiến tranh Việt-Mỹ?
Tôi đáp:
- Một nửa là thói quen của hàng ngàn năm
chống xâm lược. Nửa kia là sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân.
Anh bạn chưng hửng:
- Mày không đùa đấy chứ? Ai có thể tin
nổi một thứ lý thuyết quái gở như thế.
Tôi cười:
- Rất nhiều thứ quái gở ở phương Tây lại
là sự thực đơn giản ở phương Đông. Và ngược lại.
Bây giờ, tôi xin giải thích «thứ lý thuyết quái gở» này.
Cuộc chiến tranh Việt-Mỹ được đảng cộng
sản phát động với lời tuyên bố: Đánh đuổi quân xâm lược Mỹ.
Năm 1964, tôi mười bẩy tuổi. Vào tuổi ấy,
tất thảy thanh niên ở miền Bắc không có quyền nghe đài nước ngoài, không có
ti-vi, không có máy quay đĩa, không có bất cứ nguồn thông tin nào ngoài báo chí
cộng sản và đài phát thanh trung ương. Lần đầu tiên, tôi được nghe những bài
hát nước ngoài là năm tôi mười sáu tuổi. Mùa hè năm 1963, anh họ tôi là phiên dịch
tiếng Nga dẫn tôi cùng đứa em trai đến nhà ông chuyên gia mỏ thiếc Tĩnh Túc ở
Hà Nội. Ông bà ấy đón tiếp rất tử tế, ngoài việc chiêu đãi bánh ngọt và nước
trà chanh, còn mở máy quay đĩa cho chúng tôi nghe. Cảm giác của tôi lúc đó là
choáng váng, như muốn chết. Đó là cảm giác thật sự khi con người lạc vào một
thế giới mà họ vừa cảm thấy ngây ngất vừa cảm thấy như ngạt thở. Đĩa nhạc đó là
của Roberto… (không nhớ họ), một giọng ca Ý tuyệt diệu nhưng chết trẻ. Những
bài hát tôi nghe là các bài nổi tiếng cổ truyền: Ave Maria, Santa Lucia,
Paloma, Sérénade, Histoire d’amour, Besame Mucho…
Ra khỏi cửa nhà ông chuyên gia Nga nọ,
tôi bước đi loạng choạng. Lần đầu tiên, tôi hiểu rằng cuộc sống của chúng tôi
là cuộc sống của những kẻ bị nhốt dưới hầm. Những bài hát kia là một thứ ánh
sáng mà lần đầu tiên tôi được thấy. Ánh sáng đó rọi từ một thế giới khác, hoàn
toàn ở bên ngoài chúng tôi. Kể lại chuyện này, để hậu thế nhớ rằng, thời đại
của chúng tôi là thời đại của một thứ chủ nghĩa ngu dân triệt để. Một thứ chủ
nghĩa ngu dân tàn bạo, nó buộc con người sống như bầy súc vật trong một hàng
rào được xây nên bằng đói khát, hà hiếp và tối tăm.
Khi con người bị điều khiển cùng một lần
bằng tiếng gào réo của dạ dầy và cái bỏng rát của roi vọt thì họ không thể là
người theo nghĩa thực sự. Chủ nghĩa ngu dân là thứ lá chắn mắt ngựa, để con vật
chỉ được quyền chạy theo chiều mà ông chủ ra lệnh. Khi tất cả những con ngựa
đều chạy theo một hướng, ắt chúng tạo ra sức mạnh của «bầy chiến mã», nhất là khi, trong máu chúng đã cấy sẵn chất kích
thích cổ truyền «chống xâm lăng».
Với lũ trẻ là chúng tôi thời ấy, danh từ
Xâm lăng dùng để chỉ: quân Nguyên, quân Minh, quân Thanh, và bây giờ là quân
Mỹ. Danh từ ấy đồng nghĩa với Tô Định, Mã Viện, Thoát Hoan… Tóm lại, Mỹ là lũ
giặc phương Bắc nhưng mũi lõ, mắt xanh, tóc vàng.
Ngôn ngữ vốn là một nhà tù, mà chúng tôi
không có điều kiện để tiếp cận với các nguồn thông tin khác, các ngôn ngữ khác,
nên hiển nhiên chúng tôi là đám tù binh ngoan ngoãn sống trong nhà tù ấy, đinh
ninh rằng mình ra đi là để bảo vệ non sông.
Bởi vì, tổ tiên chúng tôi đã quen chết
hàng ngàn năm để chống lại những kẻ thù mạnh hơn họ bội phần, chúng tôi cũng
sẵn sàng ra chiến trường chống quân xâm lược Mỹ theo đúng cách thức ấy.
Đó là lý do tôi nói, «sức mạnh của chủ nghĩa ngu dân».
Sơn Diệu Mai
(Dương Thu Hương)
No comments:
Post a Comment