trước khi từ chối tỵ nạn chính trị tại Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ
hiên ngang chờ đón cái chết vì dân vì nước
hiên ngang chờ đón cái chết vì dân vì nước
Công Dân Nguyễn Anh Tuấn
Nhóm Phát Huy Tinh Thần Ngô Đình Diệm
Và nền Cộng Hòa Việt Nam
Và nền Cộng Hòa Việt Nam
Maggie
Higgins đã dành cả một chương 9 trong cuốn Our Nightmare of Vietnam để viết về Tổng
thống Diệm. Theo Higgins, Ngô Đình Diệm là một vị quan lại bị ngộ nhận quá nhiều.
Khi cụ Diệm bị Hồ Chí Minh bắt tại Tuyên Quang, lúc đó cụ Diệm đang đói và rất
đau khổ. Hồ Chí Minh đã nói với cụ, «Tôi
đã sẵn sàng dành cho ông một chức vị cao trong chính quyền. Tôi mong ông đến sống
cùng tôi và ở trong dinh Toàn Quyền.»
Cụ
Diệm nói thẳng vào mât Hồ Chí Minh, «ông
và tôi hoàn toàn khác nhau về tương lai của nước Việt Nam». Rồi cụ Diệm nói
thêm, «ông có bảo đảm là ông không áp đặt
chế độ độc tài vô sản trên đất nước này không? Tôi đã chứng kiến người CS của
ông khi cai trị tỉnh Phan Rang và Phan Thiết… họ đã hành xử như những tội phạm…
làm thế nào để tôi tin được ông? Bàn tay của nhũng người CS của ông đẫm máu những
người Quốc Gia lương thiện… ông đã giết anh tôi là tỉnh trưởng Quãng Ngãi.»
Hồ Chí Minh chống chế: «tôi chẳng hề biết
về việc anh của ông… đất nước đang hỗn loạn, ông đang buồn bực… hãy ở lại đây với
tôi… Chúng ta phải sát cánh bên nhau làm việc để chống thực dân Pháp».
Cụ
Diệm nói thẳng thừng với Hồ Chí Minh:
«Tôi không tin là ông hiểu được loại người
như tôi. Hãy nhìn thẳng vào mặt tôi xem tôi có phải là loại người biết sợ hãi
hay không?»
Hồ
Chí Minh nói:
«Không… ông không là loại người như thế.»
Cụ
Diệm nói ngay:
«Tốt lắm! bây giờ tôi đi nhé.»
Và
Hồ Chí Minh đã để cụ Diệm lặng lẽ ra đi. Vì thế Hồ Chí Minh rất tôn kính cụ Diệm.
Phlippe
Deviller, một sử gia hữu hạng đương thời của Pháp đưa ra nhận định như sau: «Ngô Đình Diệm được mọi người biết đế là một
con người chính trực liêm chính vẹn toàn (perfect integrity), một con người đầy
năng lực và rất thông minh»
Riêng
sử gia nổi tiếng Paul Mus thì cho rằng: «ông
Diệm là một lãnh tụ phe Quốc Gia được kính trọng nhất và có nhiều ảnh hưởng nhất»
(The most respected and the most influential nationalist leader).
Khi
người Nhật chiếm Đông Dương vào Đệ II Thế Chiến cũng cố gắng mời cụ Diệm cộng
tác, nhưng ông đã từ chối. Người Pháp trước và sau Đệ II Thế Chiến đã bao lần mời
ông hợp tác và bổ nhiệm ông vào các chức vụ quan trong, ông cũng đã từ chối
luôn.
Hoàng
Đế Bảo Đại đã hai lần mời ông vào 1945 và 1949, ông đều từ chối. Mãi tới lần thứ
ba vào 1954 ông mới nhận lời làm thủ tướng.
Vào
1933 cụ Diệm đã yêu cầu Pháp cải cách chính trị để trả lại một số quyền hành
cho Việt Nam để cải tạo xã hội mà lo đời sống người dân. Người Pháp không chấp
nhận nên ông đã rũ áo từ quan về làm ruộng để chờ thời.
William
Henderson, chuyên gia trong Hội Đồng Bang Giao Quốc Tế của Hoa Kỳ, thường chỉ
trích ông Diệm, nhưng phải đồng ý rằng, «Hồi
tưởng lại chính quyền chống cộng sản của Ông Diệm và sự củng cố vững mạnh quyền
hành để xây dựng một nước Việt Nam tự do thật là một phép lạ chính trị lớn lao
lần đầu tiên mới thấy.»
Sau
Hội Nghị Geneve, Henderson tiếp tục phát biểu:
«Miền Nam Việt Nam dường như đang rơi vào cơn
hỗn loạn. Với những mục đích rất thực tế, ông Diệm đã dùng quyền hành rât hữu
hiệu để chế ngự những hỗn loạn của vùng Sài Gòn và các thành phố… Mặc dù Geneve
đã được ký kết, Việt Minh đã để lại tại miền Nam những tổ chức bí mật, ngay sau
khi Việt Minh triệt thoái khỏi miền Nam, các cán bộ cộng sản vẫn kiểm soát các
vùng nông thôn, họ liên tục gia tăng việc xâm nhập vào quân đội, công an và
viên chức hành chánh tại miền Nam. Nhiệm vụ loại trừ cộng sản của ông Diệm vô
cùng khó khăn, nhưng với những chiến thuật chiến tranh tâm lý và chiến tranh
chính trị, tất cả là những nỗ lực loại trừ cộng sản rất hữu hiệu.»
Vào
giữa 1956, phần đông các quan sát viên nhận thấy những người cộng sản, dù tiềm
năng bao nhiêu chăng nữa, cũng không thể đe dọa chế độ của ông Diệm được nếu
không có trợ giúp bên ngoài. Thực tế cho thấy ông Diệm đã tái tổ chức lại quân
đội và cảnh sát để gia tăng sức mạnh của miền Nam. Trong lúc chưa đủ sức để đối
đầu nếu có những cuộc tấn công của Cộng sản Bắc Việt vào miền Nam, thì tình
hình an ninh của miền Nam đã được bảo vệ và duy trì tốt đẹp.
Ông Diệm dồn mọi nỗ lực của quyền hành để lo cho đời sống của các nông dân miền
Nam mà ông cho là chiếm 80% dân số miền Nam.
Bất cứ một phê phán nào công bình cũng phải thừa nhận là đời sống của nông
dân miền Nam đã đạt những tiến bộ quá tốt đẹp.
Trong
khi 1954 đến 1964 tất cả nông dân Miền Bắc dưới sự thống trị độc tài khát máu của
Hồ Chí Minh và Cộng sản Bắc Việt đã dở sống dở chết với tất cả sự đói khát và
khiếp đảm trong cải cách ruộng đất gây ra làm cho 50.000 người chết và 100.000
người lao động tập thể cưỡng bách đã làm cho kinh tế miền Bắc hoàn toàn sụp đổ
thê thảm.
Higgins
cho biết, phần lớn những lời chỉ trích đầy hận thù ông Diệm lại không nhắm vào
những gì ông làm và đã thành đạt, mà họ chỉ nhắm vào những phương pháp, và những
kỹ thuật điều hành guồng máy quốc gia.
Henderson
còn nói thêm: «Những ngày khởi đầu là những
ngày phủ đầy bóng tối, phần lớn các cuộc chống đối chính trị đã được khuất phục,
những quyền dân sự chưa được lý tưởng. Các cuộc bầu cử tự do còn xa vời, và những
phương pháp đem ra xử dụng để có sự ủng hộ của quần chúng vẫn độc đoán. Nhưng
những vấn nạn hai năm đầu gần như tràn ngập khi ông Diệm nắm quyền hành, trong
lúc người dân Việt vẫn thiếu hẳn sự hiểu biết và ý thức về dân chủ… Nhưng phải
nhìn nhận sự thật là ông Diệm đã dâng hiến tất cả cho chính nghĩa dân chủ được thể
hiện trong đường lối cai trị quốc gia hơn là gia tăng sự độc tài.»
«Nói
một cách khác, ông Diệm chưa đáp ứng được những tiêu chuẩn, dân chủ theo Tây
phương và đó là lý do chính yếu người ta nhắm vào để chỉ trích bất công với ông.»
Những lời nhắn nhủ nước mỹ
trở thành những lời trăn trối nhờ Higgins trao lại cho nước Mỹ trước
khi bị Thích Trí Quang và Dương Văn Minh giết
Marguerite Higgins
bước vào Dinh Độc Lập ngày 7-8-1963, đây là nhà báo sau cùng đã đến phỏng vấn Tổng
thống Diệm liên tiếp hơn 5 tiêng đồng trước khi ông nằm xuống, và đây cũng là lời
nói sau cùng với nước bạn đồng minh của Việt Nam của ngưỡi lãnh tụ mà Paul Mus
nói là «một lãnh tụ trong hàng ngũ Quốc
Gia đáng kính trọng nhất và có ảnh hưởng lớn lao nhất Việt Nam».
Theo Higgins cho biết, ông Diệm trong cuộc phỏng vấn này đặc biệt chú tâm tới
những vấn đề hệ trọng của Việt Nam như chiến tranh, cơn khủng hoảng Phật giáo, và
những đường lối đầy mâu thuẫn giữa các viên chức Hoa Kỳ, và làm thế nào để giải
quyết những cơn khủng hoảng như thế?
Ông
Diệm chấp nhận nắm quyền hành quốc gia từ 1954. Thật khó mà hình dung được hình
ảnh ông Diệm như một nhà cách mạng để nói với dân Việt Nam khi ông chấp nhận nắm
giữ quyền hành để lèo lái con thuyền quốc gia đang trong cơn bão tố do Hoàng Đế
Bảo đại trao cho:
«If I advance, follow me. If I retreat, kill
me. If I die, avenge for me»
«Nếu tôi tiến lên, hãy tiến theo tôi. Nếu tôi
tháo lui bỏ chạy, hãy giết tôi đi. Nếu tôi bị chết, hãy trả thù cho tôi».
Higgins
đã bỏ ra hơn 5 tiếng đồng hồ để trao đổi riêng tư với Tổng thống Diệm về mối
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Hoa Kỳ.
Tổng
Thống Diệm đã nói:
«Nếu người dân Hoa Kỳ hiểu được về những khó
khăn phức tạp của đất nước Việt Nam, và hiểu được bản chất của chiến tranh Việt
Nam, do cộng sản gây ra mà hiện nay chúng tôi đang phải đối đầu gánh chịu. Cô
Higgins đã đi nhiều về các vùng nông thôn. Cô đã gặp những người dân Thượng, với
những giáo mác và những mê tín dị đoan của họ. Những người dân Chàm, Cao Đài, Hòa
Hảo. Những người dân làng chất phát mộc mạc là những nơi thờ cúng tổ tiên khắp
nơi tại Việt Nam. Cô Higgins hãy nói cho tôi nghe, thứ ngôn ngữ nào của dân chủ
nghị viện có thể giải thích cho những con người như thế, khi ý nghĩa của dân chủ
chưa tìm ra trong ngôn ngữ của họ, với quá khứ của thời kỳ thực dân đất nước Việt
Nam»
Ông
Diệm nói tiếp: ’
«Những người Pháp ra di không để lại cho
chúng tôi những gia sản cao quý. Trong thời kỳ trước thực dân, ngay trong các
làng người dân có thể đọc và viết. Bây giờ chúng tôi phải xây dựng lại… Nhưng
chúng tôi phải xây dựng từ từ, bắt đầu từ các làng xã. Tại các làng xã vốn đã
có sẵn truyền thống dân chủ và quyền tự trị của các làng xã… Đó là một phần văn
hóa Khổng Giáo… Người dân làng gắn bó với việc thờ cúng tổ tiên… Và
chúng tôi muốn loại bỏ những gốc rễ đã ăn xuống quá sâu trong truyền thống Khổng
giáo của chúng tôi là tinh thần nho quan hủ bại trong việc xây dựng lại xã hội Việt
Nam.»
«Tôi biết có nhiều người Mỹ và họ cho tôi là
một thứ quan lại (mandarin)… Nhưng tôi hãnh diện với vai trò của tôi… Đó là những
kinh nghiệm mà người Mỹ chưa từng trải qua, là giới quan lại trong hệ thống Khổng
giáo, nhưng quan lại thì phải chính trực liêm chính. Đó là linh hồn của dân chủ.
Chúng đã đi ngược lại truyền thống tốt đẹp đó để sao chép thứ “nho quan hủ
bại” của quá khứ. Và chúng tôi cũng muốn đem những di sản của chúng tôi vào thời
hiện đại. Người Mỹ của cô đã hoàn tất những công trình xây dựng xã hội trên các
dòng tư tưởng và những giá trị hoàn toàn khác biệt với các giá trị trong văn
hóa của chúng tôi. Sau những cơn hỗn loạn tơi bời vừa qua của lịch sử Việt Nam
và những phá hoại của cộng sản. Ưu tiên số một của Việt Nam là ổn định và phải
kiểm soát mọi việc thật chặt chẽ, người dân phải tôn trọng chính quyền và tôn
trọng luật pháp quốc gia và có bổn phận bảo vệ trật tự quốc gia. Cô Higgins có
nhận thấy khi tôi chấp nhận chấp chánh để điều hành guồng máy quốc gia, chính
quyền trung ương đã đánh mất hoàn toàn khả năng kiểm soát các vùng nông thôn… Những
người Mỹ hiểu được những gì về truyền thống quan lại với năm đức tính phải có
mà Vương Dương Minh đã đưa ra làm tiêu chuẩn cho những người chăn dân giữ nước
là chính trực liêm chính và coi dân như ruột thịt. Những người Mỹ đang phá bỏ
tâm lý của con người Việt Nam, và họ cũng chẳng hiểu được là họ đang làm
gì vậy.»
«Báo chí và truyền thông ngoại quốc chế giễu
kỷ luật quốc gia và tinh thần tôn trọng chính quyền của người dân và cổ súy
vinh danh các quyền tự do dân sự (civll liberties) và các quyền khác của người
dân cũng như cần phải có đối lập chính trị (political opposition). Nhưng quốc
gia của chúng tôi đang đứng trước một cuộc chiến đấu vô cùng cam go và vô cùng
khó khăn trước sự sống và sự chết (life and death). Ngay cả nước Mỹ và các quốc
gia Tây Phương cũng đã từng giới hạn các quyền tự do dân sự trong hoàn cảnh khẩn
cấp của chiến tranh».
Về
phía Mỹ, Higgins muốn thấy nhận định của ông Diệm như thế nào? Và ông Diệm cho
biết:
«Ông Đại Sứ của cô đến và nói với tôi là tôi
cần phải tạo ra một khuôn mặt tự do (liberal image) cho đất nước Việt Nam bằng
cách cho phép các cuộc biểu tình trên các đường phố và cho các đảng chính trị đối
lập hoạt động công khai… Tôi không thể nào nghe lời thuyết phục của Tòa Đại Sứ,
đây là đất nước Việt Nam, đây không phải nước Mỹ. Chúng tôi có lý do chính đáng
để cấm các cuộc biểu tình trước lò lửa của chiến tranh sôi bỏng như thế này, và
lý do khác nữa là Việt cộng có mặt khắp mọi nơi… như thế chuyện gì sẽ xảy ra, và
tai vạ nào sẽ mang đến cho chúng tôi, nếu Việt cộng xâm nhập, len lỏi và trà trộn
trong các cuộc biểu tình tại Sài Gòn này, chúng sẽ ném bom và sẽ giết hại nhiều
dân của chúng tôi, và có cả báo chí ngoai quốc. Làm sao thoát? chết cả lũ hay sao? Rồi
đến những người thiên tả sẽ nói gì về tôi? và họ có tin chính quyền của tôi, khi
chúng tôi nói rằng, Việt cộng phải chịu trách nhiệm về những vụ giết người hàng
loạt như thế, cuối cùng chỉ có những người cộng sản là hưởng được tất cả lợi lộc
từ những cơn hỗn loan như thế! Cô nên suy nghĩ nhiều về những thảm họa đã xẩy
ra cho người dân của chúng tôi tại thành phó Huế. Những quả bom plastic do
chính Việt cộng ném ra… nhưng người Mỹ của cô đã thống trách ai? Họ đã đổ hết lỗi
lầm lên đầu tôi, chỉ vì tôi là Tổng Thống nước Việt Nam tự do, và họ đổ tội
luôn cho quân đội miền Nam của chúng tôi. Đây không phải trò chơi đùa của bọn
con nít. This is not child’s play.»
«Tôi đâu phải người nặn ra những tên việt cộng
khủng bố. Tuy nhiên khi tôi nỗ lực để bảo vệ che chở những người dân của đất nước
này, bảo vệ cả tính mạng của người Mỹ bằng một hệ thống an ninh chặt chẽ và hữu
hiệu của cảnh sát và bảo vệ an toàn các đường phố, và khi làm những việc khó
khăn như thế, tôi đã bị mọi người lên án là đàn áp Phật giáo».
Khi
đề cập đến những điểm đó, ông Diệm đột ngột hỏi lại Higgins:
«Cô Higgin ơi! cô có biết tôi nghĩ gì về
chính quyền Mỹ không? Phải chăng đơn giản tôi chỉ là một thứ bù nhìn của người
Mỹ hay sao? Hoặc như tôi vẫn thường kỳ vọng, chúng ta có thể là những người cộng
tác mật thiết với nhau vì chính nghĩa chung (common cause) không? »
«Tại sao tôi lại đặt ra câu hỏi đó? bởi vì
tôi đang cố gắng trở thành một người đồng minh trung thành với Mỹ. Tuy
nhiên, gần như ngày nào tôi cũng nghe phát thanh của Đài Tiếng Nói Hoa Kỳ (VOA)
và những nhà báo Mỹ thảo luận với Washington là chúng ta duy trì để ông Diệm tiếp
tục nắm quyền hay chúng ta lật đổ ông Diệm? »
«Chúng tôi là một nước nhỏ bé và nước Mỹ là một
đại cường quốc. Tôi tôn sùng nước Mỹ về nhiều lãnh vực. Nhưng Tổng Thống
Kennedy nghĩ thế nào nếu báo chí Việt Nam tràn ngập các bài viết toàn là những
chuyện vẽ vời ra để kêu gọi người dân Mỹ lật đổ Tổng thống Kennedy? »
«Chúng tôi mang ơn những viện trợ của Hoa Kỳ.
Nhưng tôi muốn tin rằng nước Mỹ không phải vì viện trợ Mỹ mà biến thành một thứ
phương tiện để Mỹ kiểm soát chính quyền Việt Nam. Chắc chắn chỉ có thể biện
minh cho sự có mặt của Mỹ tại Việt Nam, vì quyền lợi quốc gia của Hoa Kỳ đòi hỏi
phải trợ giúp Việt Nam để ngăn chặn làn sóng cộng sản khỏi xâm lăng Việt Nam. Nếu
sự thật là như thế, thì cung cấp viện trợ cho Việt Nam như một phần trong sự hợp
tác Việt-Mỹ trong chiến tranh để đánh bại cộng sản. Nhưng bây giờ tôi nghe là Hoa
Kỳ sẽ cắt viện trợ nếu tôi không làm đúng những gì người Mỹ đòi hỏi. Hành xử
như thế có phải là quá kiêu căng phách lối khi đưa ra những đòi hỏi như thế
không? Hoa Kỳ có một nền kinh tế quá lớn lao, và có nhiều điểm đáng kính trọng
tôn vinh. Nhưng với sức mạnh của Mỹ, chẳng lẽ nước Mỹ đương nhiên có tất cả quyền
để bắt buộc đồng minh của họ phải thi hành những yêu sách của Mỹ tại Việt Nam à?
»
«Có phải chiến tranh Việt Nam đang diễn ra vô
cùng khốc liệt và nóng bỏng, và đây là một thứ chiến tranh mà người Mỹ chưa bao
giờ trải qua những kinh nghiệm về một cuộc chiến như thế này. Nếu như Hoa Kỳ
đưa ra mệnh lệnh giống như bắt buộc tên bù nhìn phải cúi đầu tuân hành của họ, như
vậy thái độ của Hoa Kỳ có gì khác thực dân Pháp không? Tôi biết rõ Hoa Kỳ đang
giao tiếp âm thầm với những người Việt Nam ở đất nước này là những người đang
âm mưu để lật đổ tôi. Những người này sẽ chẳng làm được gì nếu không có sự tiếp
tay và chấp thuận của những người Mỹ. Nhóm người Việt Nam này biết rõ điều đó».
Higgins
tiếp tục dò hỏi ông Diệm:
«Thưa Tổng Thống có phải thực sự ngài nghĩ rằng
Hoa Kỳ đang âm mưu lật đổ ngài hay sao?»
Ông
Diệm liền đáp lại:
«Tôi không nghĩ là ông Đại Sứ Nolting muốn lật
đổ tôi. Tôi cũng thấy không phải CIA Richarson đang có âm mưu lật đổ tôi. Tôi
biết có một số viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ là những người đang sửa soạn
đưa ra quyết định để loại trừ tôi. Tôi thực sự không biết tương lai đi về đâu. Tôi
cũng không thể nào ngờ và tin được là Hoa Kỳ đang quay lưng hãm hại đồng minh
trung thành của họ, khi quốc gia đồng minh ấy đang bị bom đạn chiến tranh khói
lửa ngút trời vây hãm bốn bề như thế này, và chúng tôi đang điêu đứng dấn thân
trong cuộc chiến đấu để mong sống còn tồn tại của một dân tộc đau khổ tột cùng.
Nhưng có một số người quá điên rồ mê sảng, và cả thế giới hình như cũng điên rồ
mê sảng như thế.»
«Cô Higgins ơi! thêm nữa, tôi hy vọng chính
quyền Hoa Kỳ của cô nên có cái nhìn sát thực tế vào nhóm tướng lãnh trẻ đang âm
mưu chiếm đoạt chiếc ghế quyền lực quốc gia. Nhóm tướng lãnh này có thực sự trưởng
thành chín chắn chưa, hoặc họ hiểu biết được bao nhiêu về phương diện chính trị
quốc gia của họ. Làm sao nhóm tướng lãnh này có được một George Washington
trong hàng ngũ quân đội của chúng tôi? »
Higgins
nhận thấy cho đến khi những người Phật giáo tranh đấu tại Huế biến vụ Phật giáo
thành bi kịch quá lớn lao trong cơn khủng hoảng lớn lao này, lực lượng chống
đối Tổng thống Diệm có tầng lớp trí thức, và các tướng lãnh cùng các sĩ quan
cao cấp khác trong quân đội miền Nam.
Tất
cả nhóm người này chỉ là thiểu số rất nhỏ bé trong dân số của quốc gia, họ thường
xuyên tranh cãi ấm ĩ với nhau về những chuyện rất tào lao, họ không thể nào đồng
ý với nhau về sự thay đổi chế độ hay làm bất cứ điều gì cho ra hồn. Hành động với
những «âm mưu» rồi kết cục cũng chỉ
là những «âm mưu» trong các quán cafe
hay quán nhậu, tạo ra cảnh tranh khôn tranh dại, chẳng bao giờ giải quyết được
chuyện gì, dù rất tinh ma quỉ quái đầy mánh khóe nhưng thường không có mục đích
rõ ràng. .
Để
hỏi những kẻ âm mưu này xem có chương trình gì thảo luận cho tương lai của Việt
Nam không, từ đó mới thấy những con người này có làm được gì khác không, có «dân chủ» hơn không, hoặc có hiệu năng
hơn chế độ của ông Diệm hay không? Những tướng lãnh và các sĩ quan cao cấp
không có được một viễn kiến cho sự thay đổi và tiến bộ hơn một chính quyền dân
sự mà họ đang âm mưu lật đô, nhưng họ còn nguy hiểm hơn, vì nếu họ hạ bệ ông Diệm
để nắm giữ toàn bộ quyền hành quốc gia thì họ sẽ phá tan nát quốc gia.
Ông
Diệm buồn bã trả lời: «It is impossible,
Điều đó không thể nào có được, bởi vì những
người Mỹ nên hiểu về sự độc hại của những đam mê quyền hành vô độ trên đất nước
này, thứ ham mê danh lợi đó là sản phẩm của bản chất bán khai và lạc hậu (premitive
and backward) của đất nước Việt Nam phát sinh từ hậu quả xấu xa của gần 100 năm
đô hộ của thực dân Pháp. Ở đó mọi người đoàn kết với nhau trên một điểm duy nhất,
đó là lòng hận thù đối với thực dân Pháp. Tại Hoa Kỳ ngay cả những người Cộng
Hòa và Dân Chủ đã đoàn kết với nhau trên rất nhiều điểm, trên nền tảng triết lý
về chính quyền, một phần là chính sách đối ngoại. Nhưng tại Việt Nam chưa hề có
một sự thỏa thuận nào về chính quyền sẽ thành lập ra sao. Có một số thành phần
tư sản không hiểu được một cách sâu xa cái gì đã gắn bó với toàn dân về ý nghĩa
một nền độc lập của một quốc gia.»
«Vì tầng lớp trí thức tư sản này là những phần
tử hưởng đặc quyền đặc lợi của thực dân Pháp và vì thế họ khước từ không hợp
tác tích cực trong việc xây dựng và củng cố nền độc lập quốc gia. Chúng tôi
nghe nói có một số người Việt Nam đề nghị mở rộng sự bảo hộ Việt Nam của Hoa Kỳ.
Có lẽ họ hy vọng làm được như thế thì họ sẽ hưởng lợi từ những âm mưu của họ. Nếu
Hoa Kỳ ủng hộ cho những con người như thế sẽ là một sai lầm lớn lao vô cùng. Những
dự mưu bất chính đó sẽ làm tan nát hết khát vọng tự do của người dân Việt Nam muốn
thoát ách nô lệ của ngoại bang».
Tôn
Thất Thiện, một học giả và trí thức Việt Nam đã đề cập những vấn đề như Higgins
đã quan sát thấy. Ông ta viết rằng:
«Nền độc lập của Việt Nam đánh dấu một khởi đầu đầy dẫy những khó khăn, hoàn
cảnh không giống một thế kỷ khi người Pháp cai trị. Khi thực dân Pháp cai trị
người Việt Nam đối đầu với vấn đề thực dân rất đơn giản. Đó là làm thế nào để
loại trừ thực dân Pháp… Sự thống trị của thực dân Pháp đã tạo ra hậu quả là làm
tiêu tan mọi hiệu năng cần có khi cai trị quốc gia, về tổ chức, về lãnh đạo và
trách nhiệm đều mất hết… người Việt Nam đã học hỏi làm thế nào để phá hoại, vật
chất, tinh thần và xã hội. Họ không có trách nhiệm trong việc điều hành quốc
gia, họ cũng không có cơ hội để học hỏi làm thế nào để bảo vệ, để phát triển, để
xây dựng, để suy nghĩ và hành động xây dựng.»
Suốt
buổi nói chuyện với Tổng thống Diệm cho thấy ông nắm vai của một vị quan đầy
đau khổ và bị ngộ nhận quá nhiều. Ông không chối bỏ sự cai trị quốc gia trong
bàn tay mạnh của quyền hành, nhưng ông lý luận rằng, tình thế với muôn vàn khó
khăn mà không có sức mạnh thì làm sao cai trị được đất nước này, với những hỗn
loạn triền miên và thảm nạn phe phái tranh dành sâu xé sẽ làm tiêu tùng tất cả
trước một hoàn cảnh vô cùng khẩn trương liên tục vì bạo lưc đe dọa và vây hãm
không ngừng của cộng sản.
Tổng
thống Diệm bước trên một chặng đường quá gian nan khổ ải để xây dựng dân chủ và
để xoa dịu những cơn giận dữ của Hoa Kỳ là những người đang viện trợ cho Việt
Nam. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa được công bố vào tháng 10-1956, theo đúng tinh
thần của Hiến pháp Hoa Kỳ. Hệ thống chính trị theo tổng thống chế đã được thành
lập, bởi vì Việt Nam đang cần một hành pháp thật vững mạnh. Nhưng bầu cử chưa
thực sự được tự do theo tiêu chuẩn của Tây Phương (Tây phương). Làm thế
nào để 80% nông dân sống trong các làng xã và nhiều thị dân các thành phố cũng
chưa biết đọc tên đề trên các lá phiếu, họ chưa hiểu quan niệm về hiến pháp. Chưa
hiểu được sự ưng thuận của toàn dân khi lựa chọn chính quyền ra sao, không biết
bầu cử phiếu kín là như thế nào, cũng chẳng biết thế nào là phân chia quyền
hành và kiểm soát để thăng bằng quyền hành như thế nào, và những nguyên tắc dân
chủ cũng chưa bao giờ nghe thấy.
Tổng
Thống Diệm giải thích rằng:
«Tiến trình thực hiện bầu cử diễn ra rất từ từ,
và người dân sẽ từ từ hiểu được những bài học dân chủ căn bản khi đem vào thực
tế.»
Phần
lớn, Higinns cho biết, cuộc phỏng vấn dành nhiều thời gian để đề cập đến những
lời lên án kết tội chính quyền của những người Phật giáo quá khích.
Tổng
Thống Diệm đưa ra lời nhận định của ông như sau:
«Thế giới Tây Phương đã có những cuộc
chiến tranh tôn giáo, nhưng ở Việt Nam chưa bao giờ có chiến tranh tôn giáo, người
Việt Nam chưa hề xung đột sát hại lẫn nhau vì lý do tôn giáo, dân Việt
chúng tôi có cái nhìn rất bao dung về tôn giáo (tolerant people) hãy nhìn chúng
tôi và những mối liên hệ với nước Tàu. Chúng tôi đã chiến đấu và đánh bại người
Tàu trong các cuôc xâm lăng chúng tôi. Nhưng khi chúng tôi đuổi được những kẻ
xâm lăng, chúng tôi giữ lại tôn giáo của họ như Phật giáo và Khổng giáo. Các vị
vua theo Khổng giáo chiến đấu chống lại những người Công giáo không phải vì tôn
giáo của họ mà vì họ lo sợ các tu sĩ Công giáo là móng vuốt của đế quốc thực
dân… Mặc dù chúng tôi loại trừ thực dân nhưng chúng tôi giữ lại đạo Công giáo của
họ làm tôn giáo của chúng tôi».
«Tôi thực sự không hiểu được những người Mỹ. Ông
Đại Sứ của cô đã kêu gọi tôi phải tìm cách hòa giải với những người Phật giáo, nhưng
lại không chịu nói để bảo vệ và chống đỡ cho những lời buộc tội chúng tôi thật
phi lý của những người Phật giáo đang chống đối tôi. Tôi vẫn giữ đường lối
thương thảo với những người Phật giáo. Nhưng nếu tôi phải giữ thái độ im lặng, tại sao người Mỹ không chịu nói lên sự thật,
đó là những hoạt động của những người Phật giáo chẳng dính dáng gì đến lãnh vực
tôn giáo, và đó là cuộc tranh đấu bạo lực của Cộng Sản để lật đổ
chính quyền của chúng tôi.»
«Hoặc giả Washington có thể nhìn tôi như một
thằng điên? Chắc hắn chỉ có người điên, ngay trong lúc chiến tranh đang diễn ra
sôi bỏng, mà đột nhiên lại đi đánh nhau với những người Phật giáo là những
thành phần quan trọng trong dân. Nhưng tôi bảo đảm với cô Higgins, tôi chẳng phải
người điên rồ. Tôi đã làm mọi việc trong quyền hạn của tôi để xoa dịu (placate)
những ngườ Phật giáo này. Tôi đã đưa ra một sự thỏa thuận với họ về việc treo cờ
và sở hữu tài sản. Tôi đã cung cấp tất cả tài liệu cho Ủy Ban Quốc Tế của Liên
Hiệp Quốc mở cuộc điều tra gồm cả báo chí và cung cấp luôn cho những người Phật
giáo. Tại sao những người Phật giáo lại từ chối những thỏa thuận mà tôi đã đưa
ra cho họ? Cô Higgins ơi! Tôi thấy có cộng sản và Việt cộng đầy trong các ngôi
chùa đó, và chúng tôi đã biết chính xác sự thật đó. Cô đã từng theo dõi các cuộc
biểu tình, cô đã nghe những bài diễn văn đầy nội dung phá hoại, ngay cả chính
quyền Hoa Kỳ cũng khó mà bao dung nổi, nhất là không được phép làm như vậy
trong lúc chiến tranh đang sôi sục nóng bỏng. Thật là lạ lùng, ngược
lại, chính quyền Hoa Kỳ lại nói tôi nên
giữ im lặng và nên chấp nhận tất cả. This regime is to sit silently and accept all this.»
«Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu chúng tôi ngồi
im lặng xuôi tay không làm gì cả? Và trên những trang nhất của báo chí sẽ thấy
nhiều người tự thiêu hơn để thế giới thấy hình ảnh của tôi như ma quỉ. Chúng
tôi càng thụ động (passive) bao nhiêu thì càng có nhiều cuộc biểu tình nổi lên
bấy nhiêu. Làm sao tôi có thể, ngay trong lúc chiến tranh khủng khiếp đang bốc
cháy khắp, mà tôi cứ để sự hỗn loạn tơi bời cứ tiếp diễn liên tục trên các đường
phố như thế hay sao? Chúng tôi phải có trách vụ ưu tiên số một trong số những
việc phải làm, đó là đương đầu với chiến tranh».
Higgins
cho biết, cuộc phỏng vấn Tổng thống Diệm được làm trên hai cách. Có những câu hỏi
đã được viết xuống, và những câu trả lời cũng được viết thành văn. Tất cả đã được
lưu vào hồ sơ. Cuộc trao đổi diện đối diện sẽ không được xử dụng cho đến khi
nào cơn khủng hoảng này chấm dứt.
Sau
khi Higgins rời khỏi Dinh Độc Lập sau 5 tiếng đồng hồ, đầu óc Higgins mệt
nhoài, nhưng vẫn còn hăng hái.
Cuộc
đối thoại giữa Higgins và Tổng thống Diệm rất hấp dẫn, lôi cuốn, không khí
thoáng nhìn vào tâm tư của một vị lãnh tụ Á Đông da vàng, bởi vì Higgins đã cảm
nhận được ý nghĩa về những lập luận mà Tổng thống Diệm đưa ra chính là những vấn
đề gắn liền với sự sống và sự chết của chế độ ông Diệm. Nếu ông không thể thuyết
phục được Washington tương tư những gì ông đã nói với Higgins thì khôi phục lại
quan hệ với Hoa Kỳ không thể nào làm được. Và như thế, chuyện gì xảy ra và ông
sẽ không bao giờ cứu vãn được chế độ của ông, và bảo vệ được sự ổn định tại Việt
Nam.
Dù
ông có lỗi lầm gì đi chăng nữa, Tổng thống Diệm là một học giả minh triết và là
một sĩ phu xuất chúng trong thời đại của ông (Brilliant scholar and intellect).
Những chứng liệu lịch sử của Higgins cho thấy trong cuộc trao đổi giữa Higgins
và Tổng thống Diệm, đều có trích dẫn lời của Thomas Jefferson, Plato, Khổng Tử,
Đưc Phật và Lão Tử.
Ông
Diệm nói:
«Thế giới Tây Phương cần cho chúng tôi
có đủ thời gian. Mặc dù những người Tây phương chưa nhận ra hình thức dân chủ của
Đông Phương, với tinh thần dân chủ luôn luôn là một phần tinh hoa của văn hóa Á
Đông. Nền dân chủ này có liên quan đến tât cả các tôn giáo. Triết lý Ấn Độ giúp
cho linh hồn con người siêu thoát. Đức Phật truyền bá sự bình đẳng trong thế giới
con người, và những giá trị đạo đức của Khổng giáo. Tinh thần dân chủ có thể
tìm thấy khắp nơi tại Việt Nam, đặc biệt là trong các làng xã, ở đó chúng tôi
xây dựng dân chủ. Những người dân sống trong các làng xã tự cai trị lấy chính họ.
Từ từ khi chiến tranh chấm dứt, chúng tôi sẽ tiến tới một nền dân chủ ở cấp độ
lớn hơn, tức là xây dựng một xã hội và một quốc gia dân chủ. Những giá trị đó sẽ
được rút ra từ những giá trị dân chủ của văn hóa Tây Phương.»
«Nhưng điều không thể nào làm được, hay chỉ
là ảo tưởng khi nghĩ rằng một giải pháp cho chính trị Á Châu là sao chép một
cách mù quáng các phương pháp của Tây phương. Điều mà người dân Hoa Kỳ chưa hiểu
được là một quốc gia có một nền kinh tế rât lạc hậu và đang phải gánh chịu
một cuộc chiến tranh quá khốc liệt và tàn bạo, chúng tôi phải chiến đấu khốn khổ
với chiến tranh du kích của cộng sản, là những con ngưới quỉ quyệt nhất, gian
manh nhất và độc ác nhất thế giới. Không có một quốc gia nào có thể hành động
khác như chính quyền Việt Nam đang hành động trên sự chết và sự sống. Xin mọi
người hãy chỉ cho tôi thấy có một quốc gia Á Phi nào trong những giờ phút sinh
tử này có thể cổ súy cho chế độ dân chủ theo tinh thần Đông Phương. Cô đã
thấy tại Mạc Tư Khoa (Moscow) nơi đó là tổng hành dinh của chế độ độc tài lâu đời
nhất, tuy nhiên lại muốn có một chế độ dân chủ tự do cho lục địa Phi Châu.»
«Mục đích của Quốc Tế cộng sản đã quá rõ ràng. Nếu các quốc gia đón nhận lời
đề nghị của cộng sản, các quốc gia đó dễ dàng trở thành miếng mồi ngon cho cộng
sản nuốt chửng họ. Chúng tôi có lực lượng cảnh sát và an ninh, bởi vì trước
tình thế hiện nay là chống lại những đòi hỏi của cộng sản. Chúng tôi biết rõ từ
làng này qua làng khác ai là người đối đầu với những áp lực và đe dọa của cộng
sản và Việt cộng, mà người ta thường gọi là chế độ độc tài. Thực ra đó là những
hành động bắt buộc phải có cho một chính quyền muốn sống còn và tồn tại được, và
sẽ không bị cộng sản nghiền nát. Có làm như thế mới chống đỡ được chiến tranh. Và
bất cứ là ai sau tôi cầm quyền lãnh đạo chiến tranh, họ sẽ bắt buộc phải sử dụng
những phương pháp như tôi, nếu không đất nước này sẽ mất vào tay cộng sản.»
«Và nếu những người Mỹ hiểu được tình thế cực kỳ nguy hiểm, và còn biết bao
vấn đề khó khăn không thể nào vác nổi trên đôi vai của quốc gia chúng tôi. Tôi
cảm thấy chắc chắn rằng, người Mỹ sẽ không còn nỗ lực để đầu độc dư luận nước Mỹ
khi nhìn vè Việt Nam nữa.»
Ông
Diệm tra vấn nước Mỹ:
«Có thực sự nước Mỹ hiểu được là cuộc chiến đấu
gian khổ của chúng tôi với cộng sản là gì không? Đây là một cuộc chiến tranh
toàn diện (total war), một cuộc chiến tranh khác thường không lấy chiến trường
để quyết định. Nhưng là một cuộc chiến với những nỗ lực làm tiêu hao soi mòn từ
từ tinh thần của đối phương, một cuộc chiến tranh mở ra trên khắp các mặt trận,
chính trị, kinh tế, ngoại giao, tuyên truyền và quân sự, và mở ra trên tầm mức
quốc tế trên khắp thế giới. Nếu nhìn vào bản đồ thế giới, người ta có thể nhận
ra ở điểm nào với thời gian là ba năm chiến tranh với cộng sản gây ra đã làm
thay đổi bộ mặt của thế giới kể từ Đệ II Thế Chiến. Và nếu chúng tôi có mặt tại
Việt Nam để đối đầu với chiến tranh do cộng sản gây ra một cách thành công, rồi
từ bài học thành công trong chiến tranh Việt Nam, chúng tôi sẽ giúp cho cả thế
giới chống lại làn sóng cộng sản. Và đó là việc làm chúng tôi đang làm. Đừng
quên rằng trong cuộc chiến tranh này bên nào vững tâm bền chí chiến đấu tới giờ
phút cuối, người đó sẽ thắng».
Higgins
nhìn lại những sự kiện đã được viết xuống, cô bị những lời nói của Tổng thống
Diệm làm chấn động mạnh mẽ vào tâm tư của cô.
«Those who come after me», «những người kế tục vai trò lãnh đạo của tôi»
Tổng thống Diệm nói:
«Cái chìa khóa của mối tương quan liên hệ ngoại giao với cường quốc như Hoa
Kỳ và một tân quốc gia vừa mới được độc lập như trường hợp của Việt Nam; hoặc
là tôi lãnh đạo đất nước này, hay những ai kế tiếp vai trò lãnh đạo của tôi, điều
tiên quyết phải đòi hỏi là, luôn luôn tôn trọng nguyên tắc nền tảng về quyền tối
thượng (sovereignty) của tân quốc gia độc lập của Việt Nam. Tân quốc gia độc lập
(the new national independence) , ở đó biết bao con người đã chiến đấu trong
máu, nước mắt và mồ hôi để dành lại nền độc lập với bao trầm luân khổ ải chồng
chất của họ».
Cuối
cùng Higgins đã kết thúc cuộc phỏng vấn và trao đổi với Tổng thống khi quay qua
hỏi Tổng thống Diệm về nền tảng triết lý chính trị của thuyết «nhân vị» đem ra ứng dụng vào Việt Nam. Nhưng
không nên dịch «personalism» mà nên
hiểu thuyết nhân vị qua chủ nghĩa «nhân bản»
(humanism) thì chính xác hơn.
Rõ
ràng là ông Diệm không muốn bảo vệ tôn giáo của ông, và ông đã từ
chối rằng triết lý của thuyết nhân vị không có gì liên quan đến giáo lý của
Công giáo. Đây là điều đã được nhắc đi nhắc lại, và đã khiến cho ông bất bình, vì
ông đã bị người ta kết tội là tìm cách để áp đặt Kitô giáo lên những người
không phải Kitô giáo. Vì thế ông Diệm nói với Higgin rằng, thuyết nhân vị rất gần
những lời dậy của Khổng Tử.
Ông
Diệm giải thích:
«Quan niệm của thuyết Nhân Vị thực ra rất đơn
giản. Những người cộng sản quan niệm cá nhân con người hiện hữu để phục vụ nhà
nước. Ngược lại, thuyết Nhân Vị cho rằng nhà nước phải phục vụ cá nhân, an sinh
xã hội và tự do cá nhân của con người phải được bảo vệ. Nhưng tự do không phải
món quà của ông già Noel. Người nông dân của chúng tôi phải học cách hợp tác với
chính quyền trong việc bảo vệ tự do bằng cách giúp đỡ lẫn nhau và giúp đỡ cộng
đồng. Mỗi làng phải tự họ thành lập nên các lực lượng để bảo vệ chính họ, xây dựng
các tiện ích công cộng cho các hạ tầng cơ sở như ấp chiến lược, để góp tay vào
loại trừ Việt cộng. Tiếng nói của dân được bày tỏ trong các cuộc bỏ phiếu kín
trong các ấp chiến lược để tổ chức và tuyển chọn để tổ chức nên các Hội
Đồng Làng Xã. Trước thời thực dân trong các làng đều có tài sản của cộng đồng
và tài sản riêng tư của mỗi người dân. Cộng đồng làm chủ đất đai của cộng đồng,
dùng vào việc giúp cho người dân nào không có đất canh tác sẽ canh tác trên các
đất công mà sống, và con người khi sống đói khổ thì khó bảo vệ được sự chính trực
của họ. Về phương diện kinh tế, vấn đề lớn trong các nghành kỹ nghệ hóa, là làm
sao tìm được sự thăng bằng giữa quyền lợi quốc gia hay cộng đồng với quyền lợi
riêng tư của mỗi người dân, đó là nhu cầu đòi hỏi phải có mới bảo vệ được đời sống
của dân và cả đời sống quốc gia. Đó là điều phù hợp với khát vọng về truyền thống,
phong tục, tập quán và nhu cầu của đất nước Việt Nam. Tại Việt Nam của chúng
tôi, điều mà Tây Phương gọi là một nền kinh tế hỗn hợp. Vì chúng tôi
thiếu vốn đầu tư ngoại quốc nên chính quyền phải đóng vai trò lớn trong thời kỳ
kỹ nghệ hóa.»
«Trong một tình thế luôn luôn hỗn loạn liên tục
đe dọa, nhu cầu cần thiết đầu tiên là trật tự và an ninh (security and order) thật
vững vàng để xây dựng Việt Nam với đặc tính và với con người hoàn toàn Việt Nam
của chúng tôi. Sự nhấn mạnh của chúng tôi vào thuyết Nhân Vị với cách nói là
tât cả những điều như thế có thể và phải thực hiện cho bằng được trong phạm vi
giới hạn bắt buộc bởi sự sống của người dân»
Higgins
tiếp tục hỏi Tổng thống Diệm về Hồ Chí Minh vào tháng 7-1963 là cả hai Miền
Nam và Miền Bắc nói chuyện với nhau, sau cùng là tiến đến thống nhất hai miền
Nam-Bắc. Ông Diệm nói rằng:
«Có rất nhiều người nói đến chuyện thống nhất
đất nước, nhưng lại rất it người biết thế nào để thống nhất đây? . Thống nhất
thì phải hòa giải và tôn trọng tự do của người dân. Có rất ít người Quốc Gia chịu
làm áp lực với những người cộng sản Bắc Việt, đó là những người đi xâm lăng chiếm
đoạt Miền Nam (miền Nam) của chúng tôi. Lạ lùng thay, lại quay qua quốc
gia nạn nhân (victimized nation) đang bị xâm lăng để áp lực hòa giải và thống
nhất. Miền Nam tự do dân chủ và Miền Bắc độc tài cộng sản, ai là nạn nhân của
ai? ai xâm lăng ai? »
«Chúng tôi đang sống trong lò lửa hừng hực của
chiến tranh kéo dài suốt bao năm, mặc dù như vậy chúng tôi vẫn không chịu cúi đầu
khuất phục trước những đoàn quân xâm lăng bạo ngược của Cộng sản Bắc Việt, bời
chúng tôi muốn cứu vãn nền độc lập của chúng tôi và vẫn muốn tiếp tục nắm lấy
cơ hội để được sống trong tự do. Bất cứ chương trình thống nhất nào không bảo vệ
được những giá trị của độc lập và tự do và tự chủ sẽ phản bội lại những hy sinh
của toàn dân Việt Nam từ 1954, và những năm xây dựng nền Cộng Hòa của chúng tôi».
Sau
khi Higgins rời khỏi Dinh Độc Lập sau cuộc trao đổi với Tổng thống Diệm suốt 5
tiếng đồng hồ chưa đưa đến một kết luận. Sau những ngày kế tiếp Higgins đã tìm
thấy những sự kiện dồn dập để chứng minh cho những lý luận rất biện chúng (dialectical
arguments) của ông Diệm: những hình ảnh được chụp bởi những phóng viên với một
nhóm cảnh sát mặc sắc phục, những thông kê về những người đào ngũ trong hàng
ngũ Việt cộng. Các tài liệu do kết quả của các cuộc điều tra về biến cố tại Huế,
gồm có cả những cuốn sách và báo chí viết về nhiều khía cạnh của đời sống tại Việt
Nam. Đặc biệt là cuốn The Struggle for Indochina của Ellen Hammer, viết bằng tiếng
Pháp, cùng với chữ viết bằng bút chì của ông Diệm như sau:
«Tôi thiểu cô Hammer là người đã cố gắng tìm
hiểu xem chúng tôi đang làm những gì. Hammer đặt trong bối cảnh của Á Châu mà ở
đó chúng tôi điều hành đất nước và chiến đấu trong chiến tranh.»
Sau
đây là những điểm chính yếu đã được Hammer viết xuống:
«Xã hội Việt Nam không giống các xã hội
Tây Phương. Vì thế ngôn ngữ chính trị của Tây phương không thể nào diễn tả
đời sống Việt Nam mà không hết sức thận trọng, nếu không thì sẽ nguy hiểm với
những ngộ nhận và rắc rối vô cùng»
Hammer
nhận thấy,
«Xã hội Việt Nam mang tính chất của chế độ
quân chủ chuyên chế và cũng có một số khía cạnh về dân chủ. Mặc dù quyền hành nằm
trong tay Hoàng Đế, mọi khía cạnh của đời sống Việt Nam được đặt trên nền tảng
đạo đức của Khổng giáo. Những lời dậy của Khổng Tử đặt nặng về chủ nghĩa nhân bản
(humanism) mang tính cách hài hòa, để đưa ra luật lệ cho từng cá nhân chú
ý tới vai trò của dân trong chính quyền, đó là những trách vụ và sự liên hệ giữa
dân và chính quyền. Khi thực dân Pháp cai trị Việt Nam, xã hội Việt Nam không
khác xưa kia; mặc dù quyền hành chính trị nằm trong tay Pháp nên không tránh được
những mất mát trong lối sống, truyền thống xã hôi và gia đình là nơi bảo vệ những
giá trị truyền thống cho quốc gia.»
«Khổng giáo ăn sâu vào lối sống của người dân
Việt, và là nguồn gốc của văn hóa Việt Nam, không cần biết thuộc tôn giáo nào, hay
đối với Công giáo và Phật giáo, đều nhấn mạnh đến trách nhiệm, đúng như thuyết
Nhân Vị chủ trương, của cá nhân với xã hội.»
«Trong thế giới Khổng giáo, phong cách chính
trị ràng buộc bởi hàng loạt các tiêu chuẩn đạo đức dành cho bất cứ ai khi phục
vụ quốc gia phải có đủ tiêu chuẩn… với nước Việt Nam, việc tuyển chọ các thành
phần ưu tú tinh hoa vào hệ thống chính quyền, hoặc tuyển chọn các quan hoàn
toàn tùy thuộc vào giáo dục và hệ thống tuyển chọn qua các kỳ thi tuyển rất kỹ
lưỡng, các viên chức được tuyển chọn nhắm vào tài năng của họ. Trong hệ thống
Khổng giáo được áp dụng vào một xã hội mà trong đó mỗi cá nhân đều biết vị trí
và bổn phận của họ. Bất cứ quyền gì mà một cá nhân có được phải xuất phát từ chức
năng của họ và từ vai trò của họ mà xác định vị trí của họ trong xã hội.»
Vào
1954 khi ông Diệm nắm giữ quyền hành như bổn phận tuân thủ quyền hành đã mất tại
các thành phố trước đây. Nhưng từ khi ông Diệm xây dựng chế độ Cộng Hòa, từng
bước một, trên nền móng đã từng ăn sâu trong xã hội Á Đông trên các tiêu
chuẩn của Khổng giáo, cùng với sự nhấn mạnh đến những quyền của cá nhân… trong
sự phát huy một tín điều chính trị (poltical credo) xuất phát từ những gốc rễ
mà những người chân chính tại Á Châu rất thích. Những việc làm của ông Diệm là
đưa tự do vào Á Châu cũng như mở rộng nước Việt Nam Cộng Hòa.”
Cuối
cùng Higgins nhận ra là ông Diệm là một mẫu mực điển hình của một người lãnh tụ
và một người sĩ phu minh triết của Đông Phương. Ông bị những người
Tây Phương có mặc cảm tự tôn của những con người tự cho là mình siêu
đẳng (superiors) nhìn ông Diệm như những con người Á Đông hạ đẳng thấp hèn (inferiors)
vì Tây Phương (Tây phương) có sự thành tựu vế khoa học kỹ thuật và chế dộ
tự do dân chủ. Họ cho Á Châu phải học của Tây phương mọi thứ và Á Châu chẳng
đem được gì cho Tây phương. Trong lúc ông Diệm đang cố gắng phục hồi lại những
giá trị đạo đức của Khổng giáo để xây dựng dân chủ cho Nền Cộng Hòa Việt Nam trong một bối cảnh kinh hoàng của chiến
tranh mà Cộng sản Bắc Việt đang gây ra. Ông cần sự trợ giúp và cảm thông của thế
giới Tây phương, nhưng bất hạnh thay, phần đông những người Tây phương đã
nghiêng về «tả phái» (left wing) nên
đã dành tất cả tình cảm và trợ giúp cho Cộng sản Bắc Việt. Tại MNVN là một quốc
gia Á Châu lạc hậu đang khốn đốn dở sống dở chết trong lò lửa của chiến tranh
thì lại bị toàn những chỉ trích và phỉ báng lăng nhục rất tàn bạo và bất công.
Higgins
cho rằng một phán quyết của lịch sử (historical verdict) về ông Diệm không thể
nào phỏng đoán lơ mơ được. Hoặc giả ông là một tiên tri, một con quỉ, một vị
thánh, vị anh hùng (prophet, devil, saint, national hero) của dân tộc Việt Nam
hay một lãnh tụ xấu xa, thì cần đòi hỏi phải có đủ thời gian và nắm vững tất cả
sự kiện mới có thể phê phán được. Nhưng người ta khó mà có được một cái nhìn về
Tổng thống Diệm chính là một vị quan đã bị hiểu lầm và ngộ nhận quá nhiều. (Our
Nightmare of Vietnam, pages157-179)
Qua lời trăn trối, Tổng thống Diệm đã trao cả sinh mệnh của
riêng ông và trao luôn cả dòng sử mệnh đen tối nhất của Dân Tộc Việt Nam vào
tay nước Mỹ và những kẻ đang âm mưu phản loạn để họ tìm lấy sự sống hay cái chết
cho Miền Nam Việt Nam.
Hawaii ngày 15 tháng 10-2016
Công Dân Nguyễn Anh Tuấn
Political scientist
No comments:
Post a Comment