Niềm
kiêu hãnh của người Việt!
Cố GS Trần Văn Khê nói với diễn giả là một cựu Đề đốc Thủy sư người Pháp: «Ngài chơi với ai mà không biết một áng văn nào của nước Việt?»
Có một câu chuyện thể hiện niềm kiêu hãnh của người
Việt đã được Giáo sư Trần Văn Khê kể lại nhiều lần cho các học trò của mình, và
cũng được ông ghi lại trong cuốn hồi ký, kể về cuộc tranh luận bên lề buổi sinh
hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản tại Paris vào năm 1964…
Tham dự buổi sinh hoạt này hầu hết là người Nhật và
Pháp, duy chỉ có Giáo sư là người Việt. Diễn giả hôm ấy là một cựu Đề đốc Thủy
sư người Pháp. Ông khởi đầu buổi nói chuyện như thế này:
«Thưa quý vị,
tôi là Thủy sư đề đốc, đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào
đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy
cả một rừng văn học. Và trong khu rừng ấy, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt
đẹp. Trong thơ Tanka, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao
nhiêu tình cảm. Chỉ 31 âm tiết mà nói bao nhiêu chuyện sâu sắc, đậm đà. Nội hai
điều đó thôi đã thấy các nước khác không dễ có được.»
Lời phát biểu đã chạm đến lòng tự trọng dân tộc của
Giáo sư Trần Văn Khê. Chính vì thế, khi buổi nói chuyện bước vào phần giao lưu,
Giáo sư đã đứng dậy xin phép phát biểu:
«Tôi không phải
là người nghiên cứu văn học, tôi là Giáo sư nghiên cứu âm nhạc, là thành viên
hội đồng quốc tế âm nhạc của UNESCO. Trong lời mở đầu phần nói chuyện, ông Thủy
sư Đề đốc nói rằng đã ở Việt Nam hai mươi năm mà không thấy áng văn nào đáng
kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi đã rất ngạc nhiên. Thưa ngài, chẳng
biết khi ngài qua nước Việt, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của
Việt Nam?
«Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách… Phải chi ngài chơi với Giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm trên 1.500 sách báo về văn chương Việt Nam, in trên Tạp chí Viễn Đông bác cổ của Pháp số 1 năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì ngài sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông Durand đã cất công sưu tập… Ông còn hiểu biết về nghệ thuật chầu văn, ông còn xuất bản sách ghi lại các sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam. Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng ngàn áng văn kiệt tác.
«Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách… Phải chi ngài chơi với Giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm trên 1.500 sách báo về văn chương Việt Nam, in trên Tạp chí Viễn Đông bác cổ của Pháp số 1 năm 1934. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì ngài sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông Durand đã cất công sưu tập… Ông còn hiểu biết về nghệ thuật chầu văn, ông còn xuất bản sách ghi lại các sinh hoạt văn hóa của người Việt Nam. Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng ngàn áng văn kiệt tác.
«Tôi không biết
ngài đối xử với người Việt Nam thế nào, nhưng người nước tôi thường rất hiếu
khách, sẵn sàng nói cái hay trong văn hóa của mình cho người khác nghe. Nhưng
người Việt chúng tôi cũng ‘chọn mặt gửi vàng’, với những người phách lối có khi
chúng tôi không tiếp chuyện. Việc ngài không biết về áng văn nào của Việt Nam
cho thấy ngài giao du với những người Pháp như thế nào, ngài đối xử với người
Việt ra sao. Tôi rất tiếc vì điều đó. Vậy mà ông còn dùng đại ngôn trong lời mở
đầu».
Xem thêm: GS. Đoàn Lê Giang: Lời tạm kết cho cuộc
tranh luận dạy chữ Hán trong phổ thông
Rồi để so sánh với Tanka, Giáo sư đưa ra những câu
thơ như:
hay
để đối chiếu: tức là cũng dùng núi non, hoa lá để nói thay tâm sự của mình.
«Núi cao chi lắm núi ơi;
Núi che
mặt trời, không thấy người yêu»
hay
«Đêm
qua mận mới hỏi đào;
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa»
để đối chiếu: tức là cũng dùng núi non, hoa lá để nói thay tâm sự của mình.
Còn về số lượng âm tiết, Giáo sư kể lại câu chuyện về
Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên, gặp lúc bà phi của vua Nguyên
vừa từ trần. Nhà Nguyên muốn thử tài sứ giả nước Việt nên mời đọc điếu văn. Mở
bài điếu văn ra chỉ có 4 chữ «nhất».
Mạc Đĩnh Chi không hốt hoảng mà ứng tác đọc liền:
«Thanh thiên nhất đóa vân
Hồng lô
nhất điểm tuyết
Thượng
uyển nhất chi hoa
Dao trì nhất
phiến nguyệt
Y! Vân
tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!»
Dịch nghĩa là:
«Một đám mây giữa trời xanh
Một bông
tuyết trong lò lửa
Một bông
hoa giữa vườn thượng uyển
Một vầng
trăng trên mặt nước ao
Than ôi!
Mây tán, tuyết tan, hoa tàn, trăng khuyết!»
Tất cả chỉ 29 âm chứ không phải 31 âm để nói việc
người vừa mất đẹp và cao quý như thế nào.
Khi Giáo sư Trần Văn Khê dịch và giải nghĩa những câu
thơ này thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt. Ông thủy sư đề đốc đỏ mặt: «Tôi chỉ biết ông là một nhà âm nhạc nhưng
khi nghe ông dẫn giải, tôi biết mình đã sai khi vô tình làm tổn thương giá trị
văn chương của dân tộc Việt Nam, tôi xin thành thật xin lỗi ông và xin lỗi cả
dân tộc Việt Nam.»
Kết thúc buổi nói chuyện, ông Thủy sư lại đến gặp
riêng Giáo sư và ngỏ ý mời ông đến nhà dùng cơm để được nghe nhiều hơn về văn
hóa Việt Nam. Giáo sư tế nhị từ chối, còn nói người Việt không mạo muội đến
dùng cơm ở nhà người lạ. Vị Thủy sư Đề đốc nói: «Vậy là ông chưa tha thứ cho tôi». Giáo sư đáp lời: «Có một câu mà tôi không thể dùng tiếng Pháp
mà phải dùng tiếng Anh. Đó là: I forgive, but I cannot yet forget (Tạm dịch:
Tôi tha thứ, nhưng tôi chưa thể quên)».
Câu chuyện nhiều cảm hứng này cho chúng ta thấy một
điều rằng, chỉ những người am hiểu văn hóa truyền thống mới có thể cứu vãn danh
dự cho đất nước, chỉ những người không lãng quên những giá trị cổ xưa mới có
thể gìn giữ tôn nghiêm của dân tộc.
Quang Minh tổng hợp
No comments:
Post a Comment