Tháng Tư Đen, nhìn lại cuộc chiến.
Chu Tất Tiến.
Sau biến cố đau thương 1975, một số người viết sử quốc
tế và rất nhiều chứng nhân trong cuộc chiến đã ghi chép lại các nguyên nhân đưa
đến sự thất bại của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Đa số đều cho rằng nguyên nhân
chính là việc Mỹ phản bội miền Nam Việt Nam, rút toàn bộ quân Đồng Minh về nước,
không tiếp tục viện trợ cho quân Cộng Hòa, trong khi lại cho phép quân Bắc Việt
được chính thức chiếm ngụ các phần đất của miền Nam theo kế hoạch «Da Beo», một kế hoạch hoàn toàn bất công
và vô lý với Việt Nam Cộng Hòa. Kế hoạch «Da
Beo» cho phép các kẻ cướp đã cướp được nhà nào, thì được sở hữu các căn nhà
ấy, kết quả là quân Cộng Hòa, có súng mà không đạn, làm hàng xóm với Việt Cộng được
sự quân viện dồi dào của Nga Cộng và Tầu Cộng tại khắp miền đất nước. Bị buộc
làm hàng xóm với Việt Cộng, súng đạn đầy mình, thì quân Việt trước sau gì cũng
bị nuốt chửng. Đau hơn nữa, Mỹ đã công khai chấp nhận sự hiện diện thắng trận
của Cộng Sản tại miền Nam, mà hạ giá trị của Viêt Nam Cộng Hòa như một đàn em,
khi soạn Hiệp Định Thư 1973 với chữ ký của Hoa Kỳ ngang với chữ ký của Cộng Sản
Bắc Việt, còn chữ ký của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa chỉ ngang với du kích
Nguyễn Thị Bình, một kẻ đần độn, được Đảng đẩy ra làm bù nhìn cho cái gọi là
Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam do Nguyễn Hữu Thọ, một tên bung xung khác của Đảng.
(Sau 1975, các tên bung xung này bị dẹp bỏ như môt phế liệu rẻ tiền.) Như thế,
Hiệp Định Paris là một Huy Chương, một Bằng Khen quốc tế do Mỹ trao tặng cho
Cộng Sản Việt Nam, khuyến khích họ tiếp tục tấn công vào miền Nam để đạt thắng
lợi sau cùng, nộp cho Mao Trạch Đông, người đã cùng thù tạc, yến ẩm suốt ba
ngày đêm với Nixon tại Bắc Kinh năm 1971. Sự ép buộc tàn nhẫn này được sắp xếp
bởi Kissinger, môt tay thủ đoạn nham hiểm, đã hăm dọa Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu, nếu không ký vào văn kiện thì sẽ lập lại sự kiện Kenedy giết Tổng Thống
Ngô Đình Diệm. Nguyễn Văn Thiệu, vì sợ bị thủ tiêu, nên nhắm mắt ký vào văn
kiện này, đồng ý cho Miền Nam thất thủ.
Tuy nhiên, trên hết, nguyên nhân trực tiếp dẫn đến
việc Miền Nam thất thủ là vì Nguyễn Văn Thiệu, Tổng Tư Lệnh Quân Đội, đã độc
tài, mà lại không có nhiều kinh nghiệm chiến trận, nên ra lệnh «triệt thoái» Tây Nguyên, bảo quân dân
tháo chạy, mà không có kế hoạch hành quân, lại phải chạy qua thông lộ 17 kinh
dị, đầy mìn bẫy và du kích, để mặc cho pháo địch nã vào đầu quân dân miền Trung
tan nát. Những lệnh chuyển quân, điều Tướng lung tung, đến kế hoạch «Đầu to, đít teo» của Ông Tổng, đã làm
cho quân đội Việt Nam Cộng Hòa, một đạo quân anh dũng mất tinh thần chiến đấu,
trong khi phải đánh giặc với súng không đạn, máy bay và xe tăng không xăng, đưa
đến sự thảm bại của toàn thể quốc gia Việt Nam.
Ngoài ra, một vụ án chưa chứng minh được là chính
Nguyễn Văn Thiệu đã gián tiếp giết Tướng Nguyễn Văn Hiếu, nguyên Tổng Thanh Tra
Quân Lực VNCH. Khi Tướng Hiếu đang làm tờ trình kết luận Tướng Nguyễn Văn Toàn
hối lộ, tham nhũng, thì Nguyễn Văn Thiệu lại ra lệnh cho Tướng Hiếu, người đang
điều tra Tướng Toàn, dự định đưa Tướng Toàn ra trước vành móng ngựa, về làm phó
cho Tướng Toàn! Kết quả dễ thấy: chỉ trong vài ngày làm việc, Tướng Toàn cho
một anh lính bước vào phòng Tướng Hiếu, nã súng bắn Tướng Hiếu mấy phát chết
gục xuống bàn làm việc!
Lý do nữa đưa đến việc tan hàng là có quá nhiều những
kẻ «nội tuyến, gián điệp, nội thù, nằm
vùng» trong hàng ngũ lãnh đạo Quân đội, trong Quốc Hội, trong giới văn nghệ
sĩ, và giới tu sĩ miền Nam.
Kẻ nội tuyến quan trọng nhất trong quân đội là Dương Văn
Minh, phản tướng thời chính phủ Ngô Đình Diệm, kẻ tham vọng nhưng ngu xuẩn. Dương
Văn Minh có người em trai là Đại Tá bộ đội Dương Văn Nhựt. Với tình anh em
ruột, Dương Văn Minh đã chuyển cho Cộng Sản nhiều tin tức quan trọng. Những
ngày sau cùng, Minh còn hy vọng khi Bộ Đội Bắc Việt chiếm miền Nam, với tình
anh em với Dương Văn Nhựt, ông ta vẫn được làm Tổng Thống, dù là một Tổng Thống
bù nhìn. Minh cũng mong vào sự tiếp tay của tay giao liên Việt Cộng nằm vùng là
Thích Trí Quang, nhờ Trí Quang xin xỏ giùm cho ông ta được tiếp tục lãnh đạo
Miền Nam, nhưng khi Trí Quang cho hay là không có kết quả, Minh đã đập tay
xuống máy điện thoại và kêu lên: «Thầy
giết tôi rồi!» Sau đó, Minh đọc thông báo Đầu Hàng. Điều xấu hổ của một ông
vị lãnh đạo quốc gia là năn nỉ bên thắng trận «Xin cho tôi không xướng danh là Tổng Thống, có được không?» nhưng
bên thắng trận được chấp nhận. Những tháng ngày sau đó, Minh sống nhờ ơn huệ
của phe địch, rồi được cho phép bỏ nước ra đi, sống hết đời trong nhục nhã.
Nội tuyến đáng khinh thứ hai là Chuẩn Tướng Nguyễn Hữu
Hạnh, phụ tá Tổng Tham Mưu Trưởng. Tay phản bội này cũng tưởng là sẽ lập công
to với Đảng khi liên tục cung cấp thông tin về các cuộc chuyển quân của «phe ta», nhưng để sau cùng, với chính
sách «vắt chanh, bỏ vỏ» và «thà giết oan 100 người còn hơn để lọt một
tay gián điệp», Công Sản đã bỏ rơi tay nội gián này và cuối cùng, cựu Tướng
Hạnh đã kết liễu cuộc đời trong một cái lều rách dựng trong nghĩa địa.
Một tên nằm vùng khác là Đại Tá Phạm Ngọc Thảo, tên
này lặn sâu, trèo cao làm đến Đại tá Tuỳ Viên báo chí trong Hội Đồng Quân Nhân
Cách Mạng. Một thời gian sau, được cử làm Tuỳ viên Văn hóa tại Tòa đại sứ VNCH
ở Hoa Kỳ. Lộ tẩy, bị bắt nhiều lần nhưng đều được các linh mục bảo lãnh hoặc bỏ
trốn, sau cùng, bị bắt và bị đánh chết.
Trung Tá Đinh Văn Đệ, khóa 4 Thủ Đức, từng làm Tỉnh Trưởng,
sau móc nối để vào Hạ Viện, và nhờ các thế lực ngầm đưa hắn lên chiếm môt vị
trí cực kỳ quan trọng: Chủ Tịch ủy Ban Quốc Phòng Hạ Viện, nơi chuẩn chị mọi kế
hoạch chi tiêu, chuyển quân, chuyển tướng. Mọi thông tin về quân viện, quân sự
của miền Nam đều được báo cáo cho Việt Cộng, do đó, nhiều chiến dịch và trận đánh
lớn của quân Miền Nam đã bị Việt Cộng chuẩn bị đón đầu và làm cho quân ta thiệt
hại nặng. Nhưng như số mệnh của những tên phản bội khốn nạn khác, sau 1975, Đệ
chỉ được làm Hiệu Trưởng một trường học và rồi thất sủng, chết trong nhục nhã.
Tổng kết về phía Quốc Hội có nghị sĩ Hồng Sơn Đông và
các dân biểu nằm vùng như: Nguyễn Văn Hàm, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Lý Quý
Chung, Ngô Công Đức, Kiều Mộng Thu, và Đinh Văn Đệ. Không nằm trong danh sách
dân biểu, nhưng cùng hoạt động với nhóm này là Luật Sư Trần Ngọc Liễng và Tôn
Nữ Thị Ninh.
Bên cạnh những tên nằm vùng trong Hạ Viện, có rất
nhiều những tay hoạt động nội thành núp dưới nhãn hiệu Văn Sĩ, Thi Sĩ, Thượng Tọa,
Linh Mục. Điển hình trong giới nghệ sĩ là Trịnh Công Sơn, kẻ đã từng vào bưng
nhận lệnh đánh phá Tâm Lý Chiến qua các bản nhạc phản chiến, chống chiến tranh
làm ủy mị tinh thần binh sĩ. Các bản nhạc «Người
con gái Việt Nam, Đại bác ru đêm, Tôi Sẽ đi thăm, Ngủ đi con, Tình ca của người
mất trí…» chất chứa oán hờn chế độ Cộng Hòa, cho rằng chế độ này cùng hung
cực ác đã gây ra chiến tranh, hận thù, giết gái tơ, bỏ bom phá thành phố. Cùng
với Trịnh Công Sơn, ngấm ngầm hoạt động cho địch là Phạm Thế Mỹ, tác giả của
những bản «Những ngày xưa thân ái, Trăng
Tàn trên hè phố, Thương quá Việt Nam, Hoa Vẫn nở trên đường quê hương»…viết
những câu bóng gió ca tụng du kích trong rừng sâu.
Một kịch sĩ, đào thương nổi tiếng ở miền Nam với những
vở «Lá Sầu Riêng, Sắc Hoa Mầu Nhớ, Dưới
hai Mầu Áo» là Kim Cương, sau 1975, lộ diện là cán bộ văn nghệ thành ủy, đã
tập họp toàn bộ các nghệ sĩ lại buộc họ phải làm nô lệ cho chế độ mới, nếu
không thì bắt nhốt.
Về phía nhà văn, có Vũ Hạnh là tay nguy hiểm nhất, sau
khi miền Nam sụp đổ, hắn đã cho truy lùng tất cả những nhân vật làm truyền
thông cho chế độ, các nhà văn, thi sĩ chống Cộng để nhốt vào tù. Trước 1975, Vũ
Hạnh đã bị bắt 5 lần nhưng đều được bảo lãnh ra, trong số người bảo lãnh Vũ
Hạnh có Dương Nghiễm Mậu và Linh Mục Thanh Lãng. Cùng hợp tác nằm vùng với Vũ
Hạnh và các nhà báo nằm vùng khác là Huỳnh Bá Thành (Họa Sĩ ớt). Nhưng nhân vật
quan trọng nhất cỡ quốc tế phải là nhà báo Phạm Xuân ẩn, sau 1975, đeo lon Tướng.
ẩn đóng vai báo chí, giỏi tiếng Anh nên có nhiều quan hệ với giới tình báo Mỹ để
cung cấp tin cực nóng cho miền Bắc. Sau này ân hận, sống đời bệ rạc cho đến
chết.
Phía Công Giáo có Nguyễn Ngọc Lan, Chân Tín, Đa Minh
Thiện Cẩm, Huỳnh Công Minh, Vương Đình Bích, Phan Khắc Từ, Trương Bá Cần. Những
ông linh mục tay sai Cộng Sản này đã viết bài hoan hô Công An khi Công An dàn
trận phá tan tu viện Thủ Đức và bắt giữ Linh Mục Trần Đình Thủ, vị lập dòng Đồng
Công Thủ Đức và trường học Công Giáo ở đây. Về Phan Khắc Từ: Quản nhiệm Giáo Xứ
Vườn Xoài, người có vợ và hai con, nhưng vẫn làm linh mục. Phan Khắc Từ là một
linh mục nằm vùng nguy hiểm nhất, vì giữ chức vụ trong Mặt Trận Tổ Quốc, viết
báo cho tổ chức này, kích động chống phá Giáo Hội Công Giáo. Khi Vatican chuẩn
bị phong Thánh cho hơn 100 vị Tử Đạo, thì Phan Khắc Từ viết báo chống đối kịch
liệt với những lý do vớ vẩn.
Phía Phật Giáo thì có Ni Sư Huỳnh Liên, Thích Trí
Quang, Thích Nhất Hạnh, Thích Đôn Hậu.
Về Thích Đôn Hậu: năm 1968, tham gia Mặt trận Dân tộc
Giải phóng miền Nam, vào chiến khu, ra Hà Nội.
Tháng 1/1968: Phó Chủ tịch Liên minh các lực lượng Dân chủ và Hòa Bình
Việt Nam. Tháng 6/1968: ủy viên Hội đồng Cố vấn Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa
Miền Nam Việt Nam. Năm 1976, Đại biểu Quốc hội khóa VI nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam. ủy viên Đoàn Chủ tịch ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam.
(https://thuvienhoasen.org/a8173/tieu-su-hoa-thuong-thich-don-hau)
Về Thích Nhất Hạnh: Nổi tiếng với bài báo cho rằng Mỹ
bỏ bom giết chết 300,000 dân Bến Tre. Năm 2005, dẫn phái đoàn hơn 200 tăng ni
về Việt Nam cầu siêu, gặp Võ Nguyên Giáp và các lãnh đạo Cộng sản Việt Nam. Vì
vụ này mà Bush bỏ Việt Nam ra khỏi CPC, cho Việt Nam vào WTO, rồi vào LHQ, dẫn đến
ủy Viên trong ủy Ban Nhân Quyền thế giới.
Về Thích Trí Quang: Theo tin của Chùa Kim Quang, thì
Thích Trí Quang từng gia nhập đảng Cộng Sản, tiếp tay với những tên nằm vùng
khác làm sập miền Nam.
Về Sinh viên các trường đại học nằm vùng có những tên
như sau: Huỳnh Tấn Mẫm, Lê Văn Nuôi, Dương Văn Đầy, Lê Thành Yến, Phùng Hữu
Trân, Trần Khiêm, Đỗ Hữu ứng, Lê Anh, Võ Ba, Đỗ Hữu Bút, Hồ Nghĩa, Cao Thị Quế
Hương, Trương Hồng Liên, Trương Thị Kim Liên, Võ Thị Tố Nga, Phan Công Trình,
Tôn Thất Lập, Trần Long Ân…
Ác độc và dã man hơn hết là các tên nằm vùng ở miền
Trung: Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Phạn, Nguyễn Đắc Xuân là ba tên Đao
Phủ Huế, đã giết gần 6000 dân Huế vô tội vào Tết Mậu Thân 1968. Chính Hoàng Phủ
Ngọc Tường chủ tọa các phiên tòa xử tử tất cả những người mà hắn không thích,
giết cả các sinh viên bạn học. Các tên nằm vùng khác là Ngô Kha, Trần Quang
Vọng, Trần Hữu Lục, Trần Duy Phiên, Lê Văn Ngân, Trần Vàng Sao, và Võ Quế.
Thật ra, danh sách trên đây là do tác giả tìm kiếm từ
Internet, nên còn thiếu sót nhiều. Tuy nhiên, có một điều chắc chắn là sau khi
biết là có quá nhiều gián điệp, các tên nội tuyến, phản quốc, nằm vùng, sẽ có
câu hỏi là «tại sao Chính Phủ không biết
hoặc không kiểm soát được, để đến nỗi thua trận?» Xin thưa: Đó là vì Chế Độ
Việt Nam Cộng Hòa là một chế độ Dân Chủ thực sự, đầy tính nhân bản, coi trọng giá
trị của Con Người, không coi dân chúng như là những tên nô lệ, muốn bắn thì
bắn, muốn nhốt tù thì nhốt tù như trong chế độ Cộng Sản độc tài, toàn trị, luôn
giơ cao khẩu hiệu: Thà giết oan môt trăm người còn hơn để lọt môt tên phản bội. Ngược
lại, chế độ Việt Nam Cộng Hòa luôn cân nhắc kỹ từng trường hợp trước khi kết
tội, đồng thời cũng muốn cho những kẻ lầm đường, lạc lối tự giác quay về với
Dân Tộc. Vì thế, có cả một Bộ Chiêu Hồi, một tổ chức cơ quan không có tại bất
cứ quốc gia nào, nhất là trong các quốc gia Cộng Sản. Nhưng, vì Nhân Bản quá,
Tự Do quá, mà kẻ ác đã thắng!
Chu Tất Tiến.
10 tháng 4 năm 2024
No comments:
Post a Comment