Áo gấm về làng
https://tienglongta.com/2023/
Trần Yên Hòa
1.
Phải trở về quê một chuyến xem thử chỗ ngồi bên gốc cây bàng trong
khuôn viên chợ Quán Rườn nay có còn không? Chắc còn, và chẳng có gì thay đổi.
Bởi vì Hạo đã ngồi ở đó suốt 12 năm, ngày ngày ngắm ông đi qua bà đi lại, mỗi
khi có ai xe đạp bị hư, bể ruột, cong niềng, trật ốc, dắt lại sửa thì anh mừng
húm lên, bởi vì anh sẽ có được chút tiền công mang về cho 3 đứa con đang đợi ở
nhà.
Từ ngày ra khỏi trại tập trung, Hạo trở về đây, ngồi dưới gốc cây
bàng này, sửa xe đạp. Dù ai có nói ra nói vào: «Cha Hạo đã một thời là thiếu tá, từng làm tiểu đoàn trưởng chỉ huy lính
đánh địch kinh hoàng, từng một thời có xe díp cần câu, có cận vệ chạy rần trời,
thế mà nay thất thế, 10 năm ở tù về, chả lại dám ngồi dưới gốc cây bàng sửa xe,
thằng cha khùng, làm mất mặt bầu cua sĩ quan». Hạo nghĩ: «Có gì mà mất mặt, đi ở tù, hốt phân tươi
tưới rau, dòi bọ bò lổn ngổn, đi đốn gỗ, cuốc đất, tăng gia rau xanh, làm «tà
lọt» cho vệ binh, cho quản giáo, suốt 10 năm, mà chả có lấy 1 xu tiền công, còn
ăn đói nhịn khát, mặc rách. Bây giờ về, làm việc để kiếm miếng cơm chứ có gì mà
mắc cỡ». Có người cho Hạo đã bị khùng nặng, ngơ ngơ ngác ngác. Họ cho rằng,
sau khi đi tù về, vợ đã đi theo người khác, Hạo phải nuôi 3 đứa con, nên Hạo bị
«mát dây» là chuyện bình thường. Hạo
lại nghĩ khác. Mình làm ăn lương thiện thôi, đem mồ hôi đổi lấy bát cơm, có gì
mà mặc cảm.
Bây giờ thì anh quyết định trở về thăm quê, sau 5 năm ở Mỹ. Các
con anh đã lớn, đã đi làm, anh yên tâm và thấy mình may mắn. 5 năm anh đã trút
bỏ đi một phần cái thân thể gầy còm ốm nhách của ngày ra đi. Anh đã mập lên,
nước da hồng hào hơn, phổng phao hơn. Người ta nói vật chất đã làm thay đổi con
người, đúng vậy, dinh dưỡng đầy đủ của xứ Mỹ đã biến anh ra một con người khác.
Anh đã làm hết bổn phận với các con, nay anh phải tự lo lấy phần đời còn lại,
cho nên anh dự định, sẽ tìm về quê, thăm mồ mả cha mẹ, ông bà, tổ tiên, nhưng
cốt lõi trong lòng anh là muốn về quê cưới một người vợ, rồi sẽ bảo lãnh vợ
sang đây sống cùng anh, cho đời anh đỡ đi phần hiu hắt.
2.
Hạo đi chuyến bay China Airline, mang theo 2 vali quần áo cũ mà
các con đã mua ở chợ trời, định sẽ đem về cho bà con ở quê nhà, cùng với 7 ngàn
đồng anh gom góp để dành suốt mấy năm ròng. Anh nghĩ mình sẽ chi tiêu dè sẻn,
cho anh cho chị, cho bà con mỗi người một ít, còn lại anh sẽ làm mộ cho cha mẹ
anh thật tươm tất. Và khi kiếm được người đàn bà nào vừa ý như người chị hứa sẽ
dắt cho anh xem mặt mấy mối, anh sẽ đem số tiền còn lại làm quà cưới, tiệc
cưới, chắc cũng tạm đủ, vì quê anh là một xóm quê nghèo, cuộc sống lam lũ, dân
chúng không ăn xài bao nhiêu.
Chị Nhường đón anh ở sân bay Tân Sơn Nhất với nước mắt đầm đìa.
Tánh của chị anh thật giống mẹ anh ngày xưa, ngày anh đi lính, đi hành quân,
lúc nào mẹ cũng cúng vái khấn nguyện, và cuối cùng là khóc. Nước mắt vui, nước
mắt buồn đều có cả. Bây giờ mẹ mất rồi mẹ để lại cho chị Nhường hồ nước mắt ấy.
Ngày anh cùng các con khăn gói đi Mỹ, chị khóc, bây giờ anh trở về thăm chị,
chị cũng khóc.
Anh loay hoay với mớ hành lý đem về. Ở trên phi cơ, bà con đi về
kháo nhau, cửa hải quan này cho 5 đô, cửa công an kia cho 5 đô, cứ thế coi như
đấm nắm xôi vào miệng chúng cho qua truông suôn sẻ. Hạo cũng làm theo, nhưng
anh không ngờ bọn cò mồi đứng chỗ lấy hàng, bọn nó chỉ lấy tay chỉ chỏ hay lấy
tay xách hành lý cho khách mà không ai nhờ, cuối cùng thì bọn chúng xin tiền,
anh phải móc hầu bao nhưng lòng cứ ấm ức. Đến khi đẩy xe ra cửa phi trường Hạo
mới thấy như thoát nợ. Chị Nhường nhận ra Hạo ngay khi anh vừa mới ra khỏi khu
cách ly. Chị vẫy tay lia lịa và kêu:
– Hạo, Hạo,
cậu Hạo.
Hạo đến chỗ chị và ôm lấy chị. 5 năm mà chị già đi quá, mái tóc
lưa thưa bạc, mắt có những vết nhăn, anh ứa nước mắt, chị khóc. Hai chị em đi
ra chỗ chiếc taxi đã được chị thuê đậu phía bên ngoài. Hai chị em về khách sạn
nghỉ một đêm, ngày mai mới đáp xe tốc hành thuê bao về quê nhà.
3.
Ngày Hạo đi, quê của anh nghèo khổ, nay anh trở về quê vẫn không
thay đổi gì mấy. Hai cây cầu có tên «Cầu
Lỡ» vẫn lồi lõm từng nhịp, xe chạy qua gập ghềnh như đi xiếc. Đã 25 năm gọi
là hòa bình và tái thiết đất nước mà những vết tích của chiến tranh, bom đạn và
nghèo khổ vẫn trùm lên mỗi thân phận con người. Dọc đường từ ngã ba Chiên Đàn
lên đến chợ Quán Rườn, người dân đi bộ, đội những mớ rau, củ sắn từ miền quê xa
xuống chợ bán vẫn còn.
Đây là hình ảnh mà ngày nhỏ,cách đây cũng 3-40 năm, ngày anh còn
là cậu học trò đi học ở trường Chiên Đàn anh đã thấy. Hình ảnh những người dân
quê còm cõi đó vẫn ăn sâu vào lòng anh như một tì vết của nghèo khổ. Anh đã
từng cạn kiệt sức sống trong những trại tập trung, đã từng lê tấm thân ngồi nơi
gốc bàng vá từng lỗ vá ruột xe đạp để kiếm miếng cơm củ khoai về nuôi con, nên
anh biết rõ một điều là ai cũng mong có cơm ăn áo mặc, mà đến ngày nay xem ra
ước mơ ấy cũng chưa đạt được.
Xe chạy về đến nhà chị Nhường thì trời cũng quá trưa. Đi một đoạn
đường dài mất một ngày một đêm mới tới. Các con cháu của chị Nhường đứng ở sân
nhà chờ đợi. Chị Nhường con đông đến 7 đứa, có mấy đứa lớn có vợ, có chồng, có
con, tay bồng tay bế đứng nơi sân đợi. Và cả bà con lối xóm nữa. Họ đứng lố nhố
chung quanh sân. Chắc là họ muốn nhìn một người đi Mỹ trở về ra sao? Một người
mà cách đây 5,7 năm còn ngồi bên gốc bàng sửa xe đạp, ốm o gầy mòn, bây giờ đã
thay da đổi thịt, đã phổng phao thấy rõ. Một người mà cách đây 10 năm theo lệnh
của công an xã, nhân dân đã tụ họp ra ngoài trụ sở ủy ban để «giải chế» cho. Có nhiều ý kiến nói ra
nói vào về «tội ác ngày xưa» của Hạo,
khi anh còn làm tiểu đoàn trưởng. Nhưng cuối cùng thì theo «ý dân», anh được giải chế, nghĩa là
chính quyền không còn quản chế anh nữa. Nay thì cũng đám dân đó đứng trước sân
nhà anh đợi anh về, ngoắc tay, kêu lớn tiếng: «Anh Hạo ở Mỹ về đó hả, anh khỏe ghê he!»
4.
Hạo nói chị Nhượng chia phần cho những người bà con thân sơ, mỗi
người một lọ dầu gió xanh, 50 ngàn bạc Việt Nam, và một số quần áo cũ mà các
con anh đã tìm mua ở chợ trời hay các tiệm Goodwill. Với bấy nhiêu thôi, Hạo đã
được tiếng đồn lành «Ông Hạo mới 5 năm đi
Mỹ, về mua quà cho cả làng». Ngày trước cách đây 10 mấy năm chứ có đâu xa,
ngày Hạo được kêu lên xã «giải chế»,
trong một đêm tối trời trong hội trường tỏa ánh sáng đèn măng sông, cũng những
người dân kia đã giơ tay cao, đã phát biểu những lời độc địa: «Ông Hạo thuộc thành phần ngụy dữ dằn, đã
từng làm tiểu đoàn trưởng, chỉ huy quân ngụy đi càn biết bao nhiêu trận, có tội
rất lớn đối với nhân dân và cách mạng». Câu nói như một vết chém đâm ngập
vào tim Hạo, làm tâm hồn anh tê điếng, ám ảnh Hạo suốt mấy năm ròng.
Cũng những người đó hôm nay đến đây thăm anh, ai nhìn anh cũng
khen anh khỏe mạnh, mập ra, da thịt hồng hào. Thì ra cơm gạo tư bản dư dả quá,
xứ sở người ta văn minh tiến bộ quá, còn xứ sở mình thì đã 20 năm «giải phóng» mà người dân vẫn ăn đói mặc
rách. Hạo nghĩ, nếu không có cuộc ra đi thì chắc anh vẫn mãi ngồi bên gốc cây
bàng vá từng lỗ ruột xe đạp kiếm ăn, các con anh vẫn phải đi bán cà rem dạo hay
bán trà đá dạo, chứ có bao giờ nghĩ chúng sẽ được đi học đàng hoàng.
Chị Tửu, một phụ nữ từng bỏ làng nhảy núi ngày chiến tranh, đã
từng là trung đội trưởng du kích xã, từng bị thương mất đi một mắt, bây giờ
phục viên trở về làm ruộng, bị thiếu ăn, đói lên đói xuống, bế đứa con gái 3
tuổi đến nhà Hạo thăm.
Từ đàng xa chị Tửu đã lên tiếng:
– Nghe nói
anh Hạo từ Mỹ về, tôi ghé thăm anh chút, ai cũng đồn về anh.
– Đồn gì vậy
chị Tửu?
– Thì nói
anh khỏe mạnh, lột xác cũ đi.
– Vậy còn
chị thế nào, nay có khá không?
– Khá gì mà
khá, đói rã ra anh ơi. Từ ngày anh đi Mỹ tôi cũng nghỉ việc luôn, anh nghĩ tôi
tàn tật như vầy mà còn lao động gì được nữa, thế mà tôi có được cấp dưỡng gì
đâu.
Anh chạnh nhớ đến chị Tửu ngày anh ra xã «giải chế», Tửu đã đứng lên phát biểu: «Với sự khoan hồng của cách mạng, xin chính quyền xã thôi không quản chế
anh Hạo nữa». Điều này Hạo mang ơn chị Tửu, dù gì thì trong những lúc anh
bị mọi phía xô anh xuống dưới bùn đen mà có người kéo anh lên. Hôm nay để đền
bù lại tấm lòng ấy, cùng với lòng muốn cứu giúp một người hàng xóm trong cơn
ngặt nghèo, anh lấy cho Tửu những món quà anh đem về và anh cho riêng chị Tửu
100 đô la. Chị Tửu không ngờ mình được cho nhiều như vậy, chị quỳ xuống níu lấy
tay Hạo:
– Tôi không
biết lấy gì để cảm ơn anh đây, quý hóa quá, quý hóa quá!
5.
Đến ngày thứ năm thì Hạo mệt mỏi quá rồi. Anh định về quê chơi 1
tháng để nghỉ dưỡng sức rồi qua lại Mỹ tiếp tục «cày». Nhưng cái mục tiếp khách này anh thấy quá mệt, những người ở
đâu rất xa nghe anh về cũng ghé thăm để được anh cho một lọ dầu, một ít áo quần
cũ. Thì ra, tiếng lành thì đồn xa, cứ cái đà này, mỗi người đến thăm anh, anh
tiếp khoảng 20 phút thì anh cũng mệt ứ hơi rồi, huống hồ gì có người ngồi hỏi
anh đủ thứ chuyện.
Anh qua Mỹ mới 5,6 năm, mà cả ngày quần quật trong hãng làm việc,
có hôm hãng cho làm over–time thì anh đi từ sáng sớm đến tối mịt mới về nhà,
chẳng biết trời trăng mây nước gì cả, về đến nhà cũng không buồn mở Tivi. Ở
trong hãng anh làm assembly, nghĩa là công việc sai đâu làm đó, sợ từ người chủ
đến supervisor, sợ sẽ không được lòng họ, sẽ không được lên lương, không được
kêu làm thêm giờ.
Anh nhiều lúc tự cười với chính mình, tưởng qua Mỹ làm quan làm
tướng gì, lại phải chun vào làm công nhân cấp thấp. Sợ mất việc, sợ sếp không
vui nên ai cũng phải nói cười hỷ hả trong những lúc, những chuyện không đáng
cười chút nào. Sếp đặt đâu làm đó, nhiều khi lại phải nói đệm thêm những câu
cho sếp vui lòng. Anh chợt nhớ đến ngày anh còn làm tiểu đoàn trưởng, lúc còn «hét ra lửa», bọn lính thấy anh là sợ xếp
vó, đang vui đùa, cười nói đó, thấy anh lại im ngay, họ phải vui theo cái vui
của anh, buồn theo cái buồn của anh, quyền lực và đồng tiền vẫn ngự trị mãi
trên đời này. Cuộc sống cứ như là một cái bóng, ở đầu này thì thấy đầu kia cao
lớn, ở đầu kia thì ngược lại.
Nhân lễ cúng ông bà ngày Hạo về cũng như cúng hai ngôi mộ cha mẹ
anh vừa mới xây, anh đưa 500 đô cho chị Nhường lo liệu một bữa tiệc mời dân cả
xã đến dự. Chị Nhường đã thuê 2 cây dù lớn, che rợp cả 1 khoảng sân và cả khu
vườn, cùng thuê bàn ghế kê san sát để tiếp đãi khách. Trong lòng Hạo coi đây là
một lễ tạ ơn, tạ ơn cha mẹ, ông bà, đã cho gia đình anh được đi Mỹ, con cái có
tương lai và đời sống chính anh được sung túc hơn, với lại trong thâm tâm, anh
cũng muốn nở mày nở mặt với bà con lối xóm. Từ ngày đứt phim, gia đình anh tan
hoang, anh em đều đi tù, đều bị đày đọa. Nhưng bây giờ cả hai đều ở Mỹ, anh
muốn cho những người cán bộ xã ấp gọi anh là ngụy, nay phải thấy rằng điều anh
chọn lựa ngày trước là đúng đắn.
6.
Khi lễ cúng gần xong thì khách khứa cũng lục tục kéo đến. Toàn là
những người bà con trong xóm, trong làng ngày trước. Có người lúc anh gặp nạn
thì xót thương giúp đỡ, có người quay lưng, có người hận thù đòi đem anh ra xử
trước tòa án nhân dân. Bây giờ đã 10 mấy năm trôi qua, mọi điều đã lắng xuống,
cũng có một số người làm ra vẻ cố quên.
Hạo ra đứng trước cổng nhà để đón khách, gặp ai anh cũng vui mừng
bắt tay thăm hỏi. Ai cũng dừng lại với anh ít phút để hỏi người nọ người kia ở
Mỹ hay ở Sài Gòn. Những chức sắc trong Ủy ban nhân dân và công an xã cũng kéo
đến dự dù anh không mời. Có lẽ họ nghe anh về và nghe bà con xôn xao bàn tán,
họ muốn tới xem thực hư ra sao. Khi tất cả đã vào bàn, thực khách tràn đầy cả
một khoảng sân và khu vườn, Hạo đến từng bàn chúc mừng khách, ai cũng níu anh
lại làm một ly, dù chỉ nhấp môi cho có lệ nhưng rượu cũng thấm làm anh choáng
váng và bừng bốc. Khi anh đến bàn của đám công an và ủy ban thì họ đồng loạt
đứng dậy mời anh cạn ly. Anh thấy mặt mày người nào cũng đỏ ửng vì men rượu.
Ông Trà, Chủ tịch ủy ban cầm ly rượu lên mời anh:
– Mừng anh
Hạo đã trở về quê thăm bà con, tụi tôi mừng lắm.
– Thì đi lâu
cũng nhớ quê nên muốn trở về thăm.
Ông Hữu, Trưởng công an xã, người đã từng quản chế anh trong suốt
3 năm, cũng cầm ly rượu đứng lên:
– Anh Hạo,
tụi tôi đến đây dự cùng anh hôm nay cũng có ý là, thứ nhất, chia vui cùng anh,
thứ hai là nhờ anh cộng tác với xã để xây dựng một vài công trình mà xã đang
còn bế tắc. Đáng lẽ chuyện này phải mời anh ra Ủy ban để nói, nhưng sẵn đây,
anh em với nhau cả nói anh dễ thông cảm hơn, xã nhờ anh chung góp một ít để làm
cây cầu lỡ mà từ lâu ta không làm được, biết anh ở Mỹ làm ăn dễ dàng với trình
độ của anh cũng cao nên chắc làm ăn khá.Thôi thì xin anh đóng góp cho 10 ngàn
đô cho công tác chung của xã chắc anh chẳng từ nan.
Ông Hữu nói một hơi dài, cái giọng vẫn còn cái giọng kẻ cả và ra
lệnh, Hạo thấy như quá đường đột, anh vẫn biết rằng về quê sẽ gặp những cảnh
mồi chài tiền bạc nhưng anh không ngờ anh đang ở trong một hoàn cảnh khó xử như
thế này. Anh tìm kế hoãn binh:
– Các anh
nói chuyện đó đúng chớ, mình đi xa về phải góp phần xây dựng quê hương chứ anh,
nhưng đây là chuyện lớn mình phải có kế hoạch, mai mốt mình sẽ bàn nhiều hơn.
Hạo nói giã lã thêm mấy câu rồi anh tìm cách qua bàn khác sau khi
anh nhận một tràng pháo tay dài của đám chính quyền. «
7.
Tối đó, xong công việc mọi chuyện, Hạo mới khều chị Nhường ra
ngoài bàn nói nhỏ:
– Em về đây
làm mả cha mẹ, thăm bà con như vậy cũng đủ rồi, hồi hôm bọn ủy ban còn muốn vòi
tiền để xây cầu, em kiếm đâu ra, em hứa cho qua chuyện. Thôi thì mai em đi, em
vô lại Sài Gòn chơi mấy tuần rồi đi Mỹ luôn, chứ ở đây không yên với họ đâu!
Chị Nhường hỏi lại:
– Còn chuyện
vợ con em tính sao, chị đã nhắn con Lan lên rồi, nó là giáo viên, hơn 30 tuổi
chưa chồng, không đẹp nhưng hiền lành.
Hạo thấy chán nản nên nói với chị:
– Em còn
khoảng 500, đem về 7 ngàn mà lo công việc và cho bà con cũng gần hết, lại phải
vô Sài Gòn ở mấy tuần, thôi chị nói với Lan em qua Mỹ sẽ viết thư về.
Đó là quyết định của anh, Hạo sáng hôm đó nhờ thằng cháu chở xuống
bến xe rồi ra thẳng Đà Nẵng mua vé máy bay về Sài Gòn. Chị Nhường vẫn khóc
nhưng anh thì đi như một cuộc chạy trốn, anh không có thì giờ để nhìn lại gốc
cây bàng ở ngoài chợ, nơi anh ngồi đó suốt 7 năm để vá xe đạp lề đường kiếm ăn.
Thôi cái gì cũng nên gói cất trong ký ức.
Trần
Yên Hòa
No comments:
Post a Comment