Hồ
sơ tội trạng của Henry Kissinger
https://kimthemdo.com/2020/10/14/diem-sach-ho-so-toi-trang-cua-henry-kissinger/
Chistopher Hitchens
Người tóm tắt: Đỗ Kim Thêm
The Trial of Henry Kissinger, Verso Books,
The Trial of Henry Kissinger - Wikipedia
Tóm tắt
Tội ác của Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt
Khi chiến tranh kết thúc thì vấn đề này không còn ai
quan tâm. Phần lớn các tác phẩm xoay quanh chủ đề Việt
Gần đây có một ký giả đã đặt lại vấn đề này và nhìn
dưới một khía cạnh táo bạo hơn. Ông tự nhận mình có trách nhiệm như một thẩm
phán công tố và lập hồ sơ để truy tố một nhân vật lừng danh, nhưng đã gây tội
ác trong chiến tranh Việt nam và nhiều nơi khác trên thế giới. Thủ phạm được
gọi đích danh là Henry Kissinger, cựu Ngoại trưởng Hoa Kỳ và là người đã ký kết
Hiệp định
Tác giả
Chistopher Hitchens là một ký giả Hoa Kỳ gốc Do Thái,
chuyên về săn tin điều tra và viết bình luận cho tờ The Nation và The Harper
Magazine tại Hoa Kỳ. Ông đã nổi tiếng qua các loạt bài về phóng sự đìều tra
nhắm vào mặt trái của các nhân vật tên tuổi như Mẹ Theresa, Công chúa Diana và
Tổng Thống Clinton.
Nội dung tác phẩm
Tác phẩm gồm có 14 chương nhưng không đánh số thứ tự.
Phân loại theo nội dung thì gồm có phần nhập đề, 10 đề tài, phần kết luận và
phần cảm tạ.
Phần nhập đề: Tác giả tự nhận mình là một đối thủ
chính trị của Henry Kissinger và muốn buộc ông ta trong những tội trạng như
sau:
Cố ý giết người thường dân tại Ðông Dương (gồm 3
chuơng)
Ðồng loã tàn sát tập thể tại
Chủ mưu giết một nhân viên cao cấp trong chính phủ
Chủ mưu và tham dự vào việc giết một lãnh tụ của Đảo
Síp (1 chương)
Chủ mưu và thực hiện tội diệt chủng tại Đông
Tham gia vào kế hoạch bắt cóc và giết một ký giả
người Hy Lạp sống tại Washington D. C. (2 chương)
Chương 1 bật mí các bí mật trong hậu trường chính trị
Hoa Kỳ vào năm 1968, mặc dù được các chính phủ liên tiếp giữ kín. Bí mật đó là:
Vào mùa thu 1968 trong thời kỳ tranh cử chính R. Nixon và các đặc sứ của ông đã
cố tình phá hoại Hoà đàm Paris bằng cách hứa hẹn bí mật với giới lãnh đạo Nam
Việt Nam là chính quyền của Đảng Cộng hoà (nếu thắng cử) sẽ tạo vị thế thuận
lợi cho Nam Việt Nam hơn là chính phủ của Ðảng Dân chủ.
Hậu quả là Nam Việt
Nhũng bằng chứng về lời cáo buộc này được tác giả nêu
ra:
Thứ nhất là những tin tức trích ra từ nhật ký của H.
R. Haldeman, Diary of Haldeman, một cộng sự viên của R. Nixon và H. Kissinger,
người phụ trách việc lập các biên bản. Tài liệu này được công bố vào tháng 5
năm 1994.
Một tài liệu thứ hai là cuốn sách Counsel to the
President: A Memoir của Clark Clifforf, Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ. Sách được
ấn hành năm 1991. Theo Clifford xác nhận thì vào thời điểm này đã có sự gặp gỡ
bí mật giữa Tổng thống Thiệu và John Mitchell, Giám đốc Tranh cử của R. Nixon.
Ông Mitchell được bà Anna Chennault, một lobbyist của Ðài Loan làm trung gian
hỗ trợ.
– Tài liệu thứ ba là Hồi ký của R. Nixon, The Memory
of Richard Nixon. Ông xác nhận giữa tháng 9 năm 1968 ông được tin riêng là
Johnson sẽ ra lệnh ngưng ném bom để tạo điều kiện cho Bắc Việt vào hội nghị.
Ðiều này không làm ông ngạc nhiên. Kissinger báo cho ông biết là lệnh ngưng ném
bom sẽ công bố vào 23. 10. Nhưng từ tháng 6. 1968 Nixon qua trung gian của bà
Anna Chennault đã gặp riêng Ðại sứ Bùi Diễm tại
Tài liệu thứ tư là điện văn của Ðại sứ Bùi Diễm gửi
cho Tổng thống Thiệu ngày 23.10.1968. Ông Diễm cũng yêu cầu Tổng thống Thiệu
nên giữ vững lập trường, vì ông đã được Ðảng Cộng hoà xác nhận ủng hộ miền
Tài liệu thứ năm là cuốn sách của Anthony Summers,
The Arrogance of Power: The Secret World of Richard Nixon, xuất bản năm 2000.
Ðây là một tổng hợp các hồ sơ nghe lén của R. Nixon, trong đó có chiến dịch
tranh cử năm 1968. Qua hồ sơ của một điệp viên ngày 2.11.1968 thì bà Anna
Chennault gặp Ðại sứ Bùi Diễm để xác nhận sự ủng hộ của R. Nixon và yêu cầu
phía Nam Việt
Trong thời kỳ này Henry Kissinger nẳm trong bóng tối
và điều động từ hai phía. Một mặt ông đưa tin mật ra bên ngoài, tình nguyện
cung cấp tin cho Nelson Rockefeller để tùy nghi khai thác. Ông cũng nói cho
Zbiginew Brzezinski biết là ông ghét R. Nixon từ lâu và không tin Nixon thắng
cử. Mặt khác ông sử dụng Anna Chennault và John Mitchell trong các điêp vụ
ngoại giao riêng của ông. Ðiều này tạo một ấn tượng chung lúc bấy giờ là Nixon
không liên hệ gì đến vụ ngừng ném bom Bắc Việt và mọi diễn tiến đều diễn ra từ
phía Ðảng Dân chủ. Ông củng cố tin cho thấy là chính ông cũng không biết gì vấn
đề này.
Cuối chương sách tác giả đề cập tới vai trò cua Henry
Kissinger trong cái gọi là 40 Committee. Ðây là một tổ chức nhằm nghe lén và
kiểm soát các hoạt động tình báo tại hải ngoại được thành lập từ thời Tổng
thống Truman. Trong cuộc điều tra của Thượng viện năm 1973, Giám đốc CIA là
William Colby cũng xác nhận có tổ chức này và cho biết Henry Kissinger chịu
trách nhiệm điều hành, đặc biệt Kissinger nới rộng hoạt động tới các phạm vi
tình báo quốc nội, điều mà trước đây không cho phép.
Chương 2 nói tới hoạt động của Henry Kissinger tại
Ðông Dương. Trong giữa thập niên 60 khi mọi người vẫn lạc quan cho cuộc chiến
là có ý nghĩa và phần thắng nghiêng về phía miền Nam thì ông bắt đầu nghi ngờ
khả năng của phe Nam Việt Nam sau lần đi thăm Việt Nam về. Ông đã âm thầm tiếp
xúc với Bắc Việt qua trung gian hai người Pháp là Raymond Aubrac, một công chức
nguời Pháp và là bạn của Hồ Chí Minh và Herbert Marcovic, một nhà vi sinh vật
học đã đi Hà Nội nhiều lần.
Qua tin tức cung cấp từ hai người Pháp này ông đã ông
đặc biệt tìm hiểu về khả năng và vị thế thương thuyết của từng nhà lãnh đạo
miền Bắc. Ông cũng đưa tin này tiếp cho R. McNamara. Song song với công viêc
này ông cũng xúc tiến việc việc xích lại gần nhau của các siêu cường. Dù trong
kế hoạch của Việt
Tác giả nêu lại cơ hội tái lập hoà bình để lỡ của năm
1968 làm thí dụ điển hình. Theo lời khai của Averell Harimann, Trưởng phái đoàn
thương thuyết tại Hoà đàm Paris thì tháng 10 và tháng 11 năm 1968 có 90% các
lực lượng chiến đấu của miền Bắc đã rút khỏi ra hai tỉnh phía bắc Nam Việt Nam,
như Hiệp định dự kiến, còn việc ngừng ném bom miền Bắc chỉ là một điểm của Hiệp
định mà thôi. Tháng 12 năm 1968 chính là thời kỳ chuyển tiếp từ chính quyền
Johnson sang Nixon. Giới lãnh đạo quân sự tại Hoa Kỳ lại thay đổi chiến lược
triệt để. Tướng Creigton Abrams đồng ý mở một cuộc chiến tranh toàn diện nhằm
phá hoại mọi hạ tầng cơ sở của Việt Cộng tại miền Nam, điển hình là chiến dịch
hành quân càn quét tại Kiến Hoà trong 6 tháng đầu năm 1969, mà người Hoa Kỳ gọi
là Operation Speedy Express.
Qua tài liệu của Haldeman thì Henry Kissinger chú tâm
tới kết quả cuộc bầu cử 1972 tại Hoa Kỳ hơn là rút quân để giải quyết chiến
tranh Việt
Một tội trạng khác được nêu lên là vụ ném bom miền
Bắc vào mùa Giáng sinh 1972. Bây giờ là lúc mùa tranh cử tại Hoa Kỳ bắt đầu.
Theo tác giả, quyết định ném bom không phải là có tính cách quân sự thuần túy
mà vì lý do chính trị. Ông chứng minh, một mặt Hoa Kỳ chứng tỏ cho thấy thế
mạnh của mình để gây hậu thuẫn cho Ðảng Cộng hoà trong Quốc hội và đưa phe Dân
chủ về phía thụ động, mặt khác muốn gây niềm tin cho Tổng thống Thiệu thấy là
không nên sợ hãi trước việc Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam.
Tội trạng liên quan đến Cămpuchia được tác giả nêu
lên ở cuối chương. Ðúng ngày 12.05.1975 là ngày Khmer Ðỏ chiếm quyền thì một
tàu chiến Cămpuchia đã kéo theo một tàu hàng của Hoa Kỳ tên là
Chương 3 là trọng điểm của cuốn sách đuợc tác gỉả
dùng để tổng hợp tội trạng của Henry Kissinger trong chiến tranh Việt
Khởi đầu tác giả sử dụng cuốn sách
Một lập luận khác của William Corson, Ðại tá Hoa Kỳ,
cũng được nêu lên để phản chứng. Theo Corson sự khốc liệt trong chiến tranh
Việt
Lập luận này khộng được
Tài liệu của John Mc Naugton, Ðại diện Bộ Quốc phòng,
cho thấy giới lãnh đạo Toà Bạch ốc vào năm 1967 chỉ muốn một phương cách duy
nhất để quét sạch Việt Cộng bằng cách đốt nhà dân chúng, phá hết rừng rậm và
tráng nhựa lại hết toàn bộ miền Nam.
Một bằng chứng khác là cuộc Hành quân Bình định nông
thôn tại Kiến Hoà vào sáu tháng đầu năm 1969. Tài liệu của Kevin Buckley,
Trưởng Văn phòng Tuần báo Newsweek tại Sài Gòn cho thấy Henry Kissinger có
tiếng nói quan trọng trong quyết định này. Theo Buckley thì tổng số thương vong
của Cộng quân trong cuộc hành quân này là 10.899, nhưng bằng chứng khác cho
thấy số thương vong của dân chúng lên trên 5.000 và vượt qua hẳn con số tại vụ
Mỹ Lai. Trước câu hỏi được đặt ra là từ đâu có những con số này thì một sĩ quan
Sư đoàn 9 Không kị Hoa Kỳ đã trả lời là: các trực thăng có thể đếm các xác của
kẻ thù không có vũ khí này từ trên những cánh đồng. Một nghịch lý khác được tác
giả nêu lên là so với gần 11.000 người chết thì số vũ khí tịch thu được chỉ có
748. Theo ước lượng của tác giả thì cuộc hành quân này mức độ khốc liệt hơn Mỹ
Lai nhiều.
Tác giả dẫn một tài liệu khác của Tad Szulc qua cuốn
sách The Illusion of Peace. Theo đó thì chính Henry Kissinger đã có lần đề nghị
sử dụng bom nguyên tử đề phá hoại đường tiếp tế Hoa-Việt và một lần khác nhằm
phá hệ thống đê điều của miền Bắc. Nhưng đề nghị này đã không được chấp thuận.
Vấn đề ném bom Cămpuchia cũng được đặt ra. Theo tác
giả thì không có một căn bản pháp lý nào cho việc nới rộng chiến tranh này cũng
như một đảm bảo an toàn nào cho cho các thường dân. Các tài liệu từ Toà Bạch ốc
và Bộ Quốc phòng cho thấy là trong quyết định oanh tạc sang Cămpuchia và Lào
thì tổn thất các nạn nhân vô tội được dự kiến trước. Theo tác giả có it nhất
660.000 thường dân tại Cămpuchia và 350.000 tại Lào phải hy sinh oan uổng.
Trong Hồi ký của Henry Kissinger ông có đề cập tới
vấn đề này và cho là lệnh dội bom đến từ nhiều cơ quan khác nhau và điều này có
thông báo cho Quốc vương Sihanouk biết trước. Theo tác giả thì chính Kissinger
góp phần quan trọng vào vấn đề này và ông đã theo dõi chặt chẽ diễn tiến các
cuộc oanh tạc Cămpuchia. Không thể nào lập luận rằng ông không có ý thức sự
nguy hiểm của quyết định này. Sự chấp thuận của Sihanouk, nếu có, cũng không giải
tội cho Kissinger được. Những người trong cuộc như R. McNamara, Mc. Georg Bundy
và William Colby đã chính thức lên tiếng hối lỗi và cố gắng giải thích vấn đề.
Còn Henry Kissinger thì tuyệt nhiên cho đến nay không có những phản ứng gì
tương tự.
Tác giả cũng tố giác việc Hoa Kỳ đếm xác người Việt
để báo cáo lấy thành tích mà không phân biệt thường dân hay quân nhân. Một thí
dụ được nêu lên để minh chứng số tử thương chính thức từ tháng 3 năm 1968 cho
đến tháng 2 năm 1972 bao gồm: Hoa Kỳ 31.205, Nam Việt Nam 86.101 và đối phương
475.609. Cũng nên biết là trong thời kỳ này Hoa Kỳ đã ném 4.500.000 tấn chất nổ
xuống Ðông Dương.
Theo ước lượng của Thượng viện Hoa Kỳ thì ít nhất có
trên ba triệu thường dân thiệt mạng. Một con số khác được CIA đưa ra là chỉ có
35.708 thường dân bị bắt cóc và giết chết trong chiến dịch Phượng hoàng cũng là
điểm đáng nghi ngờ. Những con số này được Henry Kssinger đưa ra nhằm lừa dối,
dấu nhẹm công luận và tránh áp lực của Quốc hội. Tác giả đã trích dẫn Nhật ký
của Haldeman để dẫn chứng sự kiện này ở cuối chương sách.
Chương 4 nhằm cáo giác tội diệt chủng và âm mưu đảo
chính của Henry Kissinger tại
Tháng 12 năm 1970 phe quân phiệt
Bất bình trước các đàn áp thô bạo này Tổng lãnh sự
Hoa Kỳ tại Dhaka là Archer Blood gửi điện văn phản đối sự chậm trễ can thiệp
của Hoa Kỳ. Việc này được đa số nhân viên Toà Lãnh sự ủng hộ. Quân đội tiếp tục
đàn áp sinh viên và dùng súng bắn vào các cư xá đại học. Các vũ khí này do Hoa
Kỳ cung cấp trong chương trình Viện trợ Phát triển. Trong 3 ngày đầu theo tác
giả có tới 10.000 thường dân bị chết. Tổng số nạn nhân trong cuộc đàn áp này
được ước lượng tối thiểu từ hơn nửa triệu cho đến đến ước lượng tối đa là ba
triệu thường dân. Trước tình hình cực kỳ sôi động,
Ðai sứ Hoa Kỳ tại Ấn Ðộ là Kenneth Keating trong điện
văn ngày 29 tháng 3.1971 yêu cầu Hoa Kỳ phải có biện pháp ngăn chặn. Kết quả
đạt được là Henry Kissinger đã cách chức Archer Blood và cảnh cáo Kenneth
Keating. Vào cuối tháng tư 1971 là thời kỳ cao điểm của đàn áp chính tướng
Yahya Khan đã gửi thư cảm tạ Henry Kissinger về sự hợp tác.
Theo tài liệu của sử gia Lawrence Lifschultz thuộc
Ðại học Yale mà tác giả dẫn chứng thì Henry Kissinger phải làm ngơ vì vào thời
điểm này
Thái độ của Henry Kissinger cho thấy là ông không tôn
trọng nguyện vọng dân chủ của nhân dân
Ngày 14.8.1975 thì Mujibuhr và 40 tùy tùng đã bị hành
quyết trong một cuộc đảo chính. Những chi tiết liên quan với David Eugene
Booster, Ðại sứ Hoa Kỳ và Phipp Cherry, Trưởng Cơ quan tình báo CIA tại
Bangladesh được tác giả dẫn chứng. Một cuộc điều tra về âm mưu đảo chính của
Kissinger đã được tổ chức Carnegie thực hiện với sự tham dự của 150 viên chức
Bộ Ngoại giao và CIA, nhưng kết quả không được công bố vì chính áp lực của
Kissinger.
Chương 5 nhằm vạch trần tội trạng của Henry Kissinger
tại
Tháng 9 năm 1970 phe tả của Dr. Salvador Allende
thắng thế với đa số phiếu 36,2 % trong cuộc bầu cử Tổng thống. Sự phân hoá
chính trị trong cánh hữu và bảo thủ càng trầm trọng hơn khiến cho các doanh
nghiệp Mỹ tại Chile như ITT, Pepsi-Cola và Ngân hàng Chase Manhattan thấy làm
ăn khó khăn hơn; triển vọng bang giao kinh tế hai nước theo chiều hướng này
cũng xấu đi. Sau khi thoả thuận với Donall Kendall, Chủ tịch tập đoàn
Pepsi-Cola, David Rockefeller, Chủ tịch Ngân hàng Chase Mahattan và Richard
Helms, Giám đốc CIA, Henry Kissinger cùng Richard Helms đến gặp R. Nixon để tìm
cách giải quyết vấn đề. R. Nixon đồng ý kế hoạch ngăn trở Allende nắm quyền,
phí tổn chấp thuận là 10 triệu đô la, kế hoạch hành động trong vòng 48 tiếng
đồng hồ và Toà Ðại sứ Hoa Kỳ không được liên can.
Các tài liệu được giải mật sau này cho thấy Henry
Kissinger thoạt đầu không quan tâm đến tình hình của
Theo kế hoạch của Kissinger thì một toán đặc nhiệm
công tác được hình thành từ
Toán công tác nhận định rằng tình trạng phân hóa
trong quân đội, sự trung thành đối với tướng Schneider và Hiến pháp sẽ làm trì
trệ kế hoạch. Nhưng Henry Kissinger bất chấp và ra lệnh phải tiến hành. Ngay
trong đường dây thứ hai thì chính Kissinger cũng chia làm hai loại nhóm tướng
lãnh của
Nhóm thứ nhất là tướng Roberto Viaux và Arturo
Marshall. Nhóm này đã có lần tổ chức đảo chánh vào năm 1969 nhưng không thành
công và bị quân đội cũng như chính giới không coi trọng. Nhóm thứ hai, tương
đối khả kính hơn, do tướng Camilo Valenzuela cầm đầu. Kissinger chấp thuận cung
cấp vũ khí cho tướng Roberto Viaux, người thi hành kế hoạch này. Sau thời gian
tiếp xúc thì CIA nghi ngờ khả năng hành động của nhóm tướng Roberto Viaux, dù
trước đó đã giao 20.000 đô la tiền mặt và một khế ước bảo hiểm nhân thọ cho y
với trị giá 250.000 đô la. Cuối cùng Nixon đi đến quyết định ủng hộ nhóm tướng
Valenzuela và thúc hối hành động.
Ðêm 18 tháng 10 năm 1970 nhóm của tướng Valenzuela tổ
chức bắt cóc tướng Schneider nhưng thất bại vì ông này vào giờ chót đổi ý dùng
xe riêng đi thay vì công xa. CIA hốt hoảng, thúc hối nhanh hơn và tiếp tục trả
thêm cho nhóm tướng Valenzuela 50.000 đô la nữa. Ðêm 20 tháng 10 một cuộc bắt
cóc lần thứ hai lại thất bại. Ngày 22 tháng 10 CIA tiếp tục giao vũ khí cho
nhóm tướng Valenzuela. Nhưng cùng ngày này thì tướng Scheider lại bị giết bởi
nhóm của tướng Roberto Viaux.
Tài liệu của Toà án Quân sự
Những bằng chứng được tác giả nêu ra là: Brian
MacMaster, một nhân viên CIA, lúc đó giả dạng là một doanh nhân làm ăn tại
Ðại tá Paul M. Wimert, Tùy viên quân sự Toà Ðại sứ,
là người chịu trách nhiệm liên lạc với nhóm tướng Valenzuela, khai rằng, sau vụ
mưu sát ông đòi Valenzuela trả 50.000 đô la và 3 khẩu súng lại và ông vứt vũ
khí này xuống biển để phi tang. Người đồng loã với ông là Henry Hecksher,
Trưởng nhóm CIA, trước đó đã xác nhận với
Trong văn thư của Kissinger gửi đi ngày 15 tháng 10
không có bằng chứng nào chứng tỏ là Hoa Kỳ đình chỉ hợp tác với nhóm tướng
Viaux. Ngược lại điện văn của Bộ Ngoại giao gửi cho Henry Hecksher ngày 20
tháng 10 cho thấy sự lo lắng của các giới chức cao cấp khi hay tin hai lần mưu
sát tướng Schneider bất thành. Sau này Thomas Karamesines xác quyết là sự quan
tâm này đến từ Henry Kissinger.
Ðại sứ Edward Korry cũng khai rằng Kissinger đã ép
ông đứng ra nhận hết tội trong vấn đề này vì Kissinger cho là xui xẻo và không
muốn dính tới.
Ở cuối chương tác giả trích dẫn những đoạn trong Hồi
ký của Kissinger qua những lần gặp gỡ Pinochet và so sánh quan điểm trình bày
với những biên bản chính thức của Bộ Ngoại giao. Những vấn đề nhân quyền, đàn
áp đối lập, bang giao hai nước và phát triển tổ chức Châu Mỹ La tinh (OAS) viết
ra đều trái ngược nhau.
Chương 6 bổ túc thêm về tội trạng của Henry Kissinger
về vụ
– CIA đã hợp tác với ba nhóm tướng lãnh khác nhau để
đảo chính, chứ không phải là hai nhóm như được biết từ trước đến nay. Cả ba
nhóm đều đồng ý là phải bắt cóc tướng Schneider, vì ông này chủ trương Quân đội
phải tuân theo Hiến pháp và đồng ý cho Allende nắm quyền. CIA chỉ cung cấp vũ
khí cho môt nhóm tướng lãnh mà thôi và không có ý định giết tướng Schneider.
Cuối cùng CIA hợp tác với nhóm thứ hai, nhưng trưóc đó bốn ngày đã ngưng yểm
trợ vì nhận định là đảo chính sẽ không thành công.
Tác giả nêu lên một phản chứng khác:
– Ðến tháng 11 năm 1970 một thành viên trong nhóm của
tướng Viaux đã trốn thoát cuộc lùng bắt và liên lạc được với CIA để xin giúp đỡ
tiền bạc. CIA đã trả cho người này 35.000 đô la để mong là im tiếng. Tác giả
suy đoán lệnh trả tiền phải do Kissinger duyệt y, vì CIA tại
Ở cuối chương này tác giả dẫn chứng về sự hợp tác của
CIA với tên trùm mật vụ của Pinochet là Manuel Contreras. CIA xác nhận giúp đỡ
cho Contreras, nhưng chỉ nhằm thêm phương tiện kỹ thuật và huấn luyện nhân viên
tình báo để
Chương 7 cáo giác tội trạng của Kissinger trong việc
can thiệp vào nội bộ tại Đảo Síp.
Ðây là một đảo với 82% dân Hy Lạp và 18% dân Thổ sinh
sống. Tổng thống Makarios của Đảo Síp được dân chúng bầu ra. Nhưng độc lập của
Đảo Síp là cái gai cho Hy Lạp và Thổ. Cả hai đều muốn xác nhập Đảo Síp vào nước
của mình, cả hai đều ủng hộ các tổ chức nổi loạn, gây bạo động để chống đối lẫn
nhau. Trước tình hình này Kissinger cho là chế độ của Makarios chính là đầu mối
cho sự bất ổn tại Đảo Síp và gây nguy hại cho tình hình chung trong vùng.
Dimitros Ioaninides, Trưởng cơ quan tình báo của Hy Lạp lập kế hoạch nhằm lật
đổ Makarios vằ muốn đặt Đảo Síp dưới quyền kiểm soát của Hy Lạp.
Hoa Kỳ đã yểm trợ kế hoạch này. Henry Kissinger đã
biết tin đảo chính trưóc hai tháng trước đó, tức là tháng năm 1974, nhưng ông
không phản ứng gì. William Fulbright, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thượng viện,
ngay sau khi biết tin đảo chính này do một ký giả Hy lạp là P. Demetracopulous
cung cấp, đã yêu cầu Kissinger tìm mọi biện pháp ngoại giao để ngăn chận, nhưng
Kissinger chối từ viện cớ đây là nội bộ của Hy Lạp.
Những bằng chứng cho thấy Ioannides liên hệ với CIA
trong khi Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ không phản ứng gì trước tình hình ngày càng sôi
động. Sau ngày đảo chính, trước áp lực nặng nề Kissinger đã họp báo thanh minh
là không nhận được tin tức gì liên quan. Thực ra ông có đủ mọi nguồn tin, từ
chính thức cho đến tin tình báo về diễn biến tình hình. Việc quyết định cho
Nicos Samson nắm quyền đều do CIA sắp đặt và chi trả phí tổn. Trong một hồi ký
của tướng Grigorios Bonanos, Tư lệnh Quân đội Hy Lạp in năm 1986 tại Athen tựa
là Sự thật đã phơi bày tác giả đã cho biết: Cuộc tấn công vào đảo Đảo Síp được
chính thức ủng hộ của Thomas A. Papas, người trung gian liên hệ giữa nhóm đảo
chính và Nixon – Kissinger.
Kế hoạch đảo chính thất bại làm hàng ngàn người chết
và 200.000 người tỵ nạn. Mặc dù Makarios trốn thoát được và tìm cách vận động
trở về nắm quyền nhưng Kissinger luôn tìm cách ngăn trở. Ông cũng không công
nhận Makarios là Tổng thống của Đảo Síp nữa. Sau nhiều áp lực từ Thượng nghị sĩ
William Fulbright, Chủ tịch ủy Ban Ngoại giao Thượng viện và Dân biểu Thomas
Morgan, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Hạ viện, người chính thức mời Makarios đến
thăm
Kissinger cũng lượng trước được tình hình: ngày nào
Hy Lạp còn muốn nắm quyền thì Thổ cũng sẽ tìm cách phản công quân sự. Ông luôn
tìm cách ngăn trở sự phục hồi của Makarios qua hỗ trợ quân sự của Thổ hay Anh
Quốc. Sir Tom Mcnally của Bộ Ngoại giao Anh cũng đã có tài liệu minh chứng điều
này.
Chương 8 buộc tội Henry Kissinger trong việc chủ mưu
diệt chủng nhân dân Đông
Ðảo Timor trước đây thuộc Bồ Ðào Nha sau này bị
Inđônexia sát nhập. Phòng trào đấu tranh dành độc lập của FRETILIN được dân
chúng trong đảo ủng hộ và gây được thiện cảm của ngoại quốc. Ngày 7 tháng 12
năm 1975 Inđônexia tấn công quân sự lên đảo
Khi tin tức chi tiết về sự tàn sát tại Đông
Ngày 11 tháng 7 năm 1995 trong khi đi giới thiệu tác
phẩm mới của mình là Diplomacy, Kissinger đã gặp các nạn nhân và vấn đề được
đặt ra.
Trả lời câu hỏi của ông Constancio Pinto, một lãnh tụ
của phong trào đấu tranh Đông Timor, Kissinger cho biết là việc ông đến
Inđônexia vào thời điểm này hoàn toàn tình cờ. Tổng thống Ford và ông dự trù đi
Trung Hoa trong năm ngày. Mao Trạch Ðông đang bi bệnh nặng và phong trào Tứ
Nhân Bang gây bất ổn nội tình Trung Hoa khiến ông Ford quyết định Hoa du chỉ có
hai ngày và thay đổi chương trình đi thăm Phi Luật Tân một ngày rưỡi và
Inđônexia một ngày rưỡi.
Trong cuộc hội kiến tại Inđônexia thì vấn đề Đông
Ông Allan Nairn, một ký giả Hoa Kỳ, nạn nhân còn sống
sót của cuộc tàn sát tại
Một bẳng chứng khác được ông Nairn đưa ra là một biên
bản buổi họp tại Bộ Ngoại giao ngày 18.12.1975. Theo biên bản này thì Kissinger
sau khi đi Inđônexia về đã khiển trách nhân viên nặng nề vì đã để ông Leigh,
một luật sư cố vấn của Bộ lên tiếng chỉ trích. Theo ông Leigh thì việc
Inđônexia tấn công vào đảo
Tác giả nêu một bằng chứng từ tài liệu của C.Philipp
Liechtey, Trưởng nhóm CIA tại Inđônexia. Liechtey xác nhận có sự hỗ trợ chính
trị từ Bộ Ngoại giao và yểm trợ vũ khí cho các cuộc đàn áp. Ở cuối chương toàn
văn biên bản ngày 18.12.1975 tại Bộ Ngoại giao được đem ra phân tích chi tiết
để kết tội Kissinger.
Chương 9 đưa ra ánh sáng vụ giết một ký giả người Hy
Lạp bút hiệu P. Demetracopoulos ngay tại Washington D. C. mà Henry Kissinger
trực tiếp tham gia.
Demetracopoulos là một ký giả nổi danh chống chế độ
quân phiệt Hy Lạp nhưng ông cũng là một nhà tư vấn và cung cấp tin tức cho
nhiều chính giới tại Hoa Kỳ về nội tình Hy Lạp. Demetracopoulos từ lâu là một
cái gai cho Kissinger vì ông biết quá nhiều tin tức tối mật của Hoa Kỳ, điển
hình là vụ tiền quyên góp 549.000 đô la của tình báo Hy Lạp cho Nixon để vận
động tranh cử qua trung gian của một doanh nhân Hy Lạp tên Thomas Papas A. FBI
đã theo dõi những hoạt động của ký giả này từ lâu.
Chính quyền Hy Lạp cũng tước quốc tịch của ông và
tình báo Hy Lạp có những âm mưu tổ chức bắt cóc và dẫn độ ông này về Hy Lạp để
xét xử. Kế hoạch này được CIA hỗ trợ. Theo một tài liệu của William A.
Dobrovir, một luật sư của Demetracoupolos, tổng hợp từ nhiều nguồn tin khác
nhau của FBI, CIA, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp và Bộ Quốc phòng thì chính
Kissinger là đồng loã. Trong Hồi ký In The First Line of Defense của Konstantin
Panayota, Ðạ sứ Hy Lạp tại Hoa Kỳ đã nêu lên bằng chứng về sự hợp tác này.
Chương 10 tố cáo Henry Kissinger hợp tác với các chế
độ độc tài trên thế giới qua tổ chức tư vấn của ông.
Ngay sau khi rời khỏi chính trường, ông lập một văn
phòng tư vấn gọi là Kissinger Associates mục đích nhắm giúp giới doanh nhân
tiếp xúc với các chính quyền trên khắp thế giới để tìm kiếm cơ hội đầu tư.
Khách hàng của ông là các doanh nghiệp khổng lồ như American Express, Searmon
Learman, Arco, ITT, Lockhead, Cola Cola Fiat, Deawoo…
Tại thi trường Trung Hoa ông đã làm trung gian thương
thuyết cho các hãng H. L. Heinz, Atlantic Richfield/Arco và Chase Manhattan
Bank. Qua trung gian của một thành viên là Lawrence Eagleburger, văn phòng ông
cũng hợp tác làm ăn với LSB một ngân hàng của chế độ độc tài Bulgari và làm Ðại
diện Hoa Kỳ cho Tổ hợp Xây dựng quốc doanh của Nam Tư Yugo Enerjoproject, một
tổ chức sản xuất vũ khí quốc phòng.
Một thành viên khác trong tổ chức của ông là Alan
Stoga cũng công khai hợp tác với Sadam Hussein, mở ra một Iraq Business Forum
nhằm giúp đỡ doanh nhân dễ dàng đầu tư tại
Chương cuối cùng có tựa đề là Luật pháp và công lý.
Tác giả đề cập tới một căn bản pháp lý để áp dụng trong trường hợp Henry
Kissinger. Theo tác giả có bốn nguốn luật pháp hiện đại được áp dụng là: Luật
quốc tế về Nhân quyền, Luật chiến tranh, Hình luật quốc tế và Hình luật các
quốc gia.
Tác giả ghi nhận rằng Công ước quốc tế về tội diệt
chủng mới được phê chuẩn từ năm 1988, Công ước công nhận về các quyền dân sự và
chính trị cũng được ký kết từ năm 1992 và những nguyên tắc của Toà án Nürnberg
đều không thể áp dụng cho các hành vi của Henry Kissinger vì nguyên tắc bất hồi
tố trong các văn kiện này. Tác giả giải thích luật phong tục quốc tế sẽ là một
căn bản pháp lý duy nhất để áp dụng cho trường hợp Henry Kissinger, đặc biệt
các tội trạng liên quan đến chiến tranh Ðông Dương. Tội danh diệt chủng này đã
được Toà án Quốc tế công nhận từ năm 1951 và nay thì Toà án Hình sự Quốc tế có
thẩm quyền. Trong việc cung ứng vũ khí cho Inđônexia, theo tác giả thì Henry
Kissinger đã vi phạm luật pháp về vũ khí của Hoa Kỳ phải chịu tội trước toà án
Hoa Kỳ.
Phản ứng của Henry Kissinger
Dư luận tại Hoa Kỳ rất quan tâm đến phản ứng của
Henry Kissinger từ ngày tác phẩm này ra đời, nhưng cho đến ngày nay ông tuyệt
nhiên không lên tiếng trả lời chính thức về sự cáo giác này.
Tuy nhiên, trong một tác phẩm mới nhất của ông do nhà
xuất bản Simon & Schuster ấn hành năm 2001, Does America need a foreign
policy? Henry Kissinger đã trả lời một cách gián tiếp vấn đề này khi bàn về vai
trò của Toà án Hình sự Quốc tế. Ông viết: Phần đông người Hoa Kỳ rất ngạc nhiên
khi biết rằng Toà án Hình sự Quốc tế về nước Nam Tư cũ được thành lập do chỉ
thị của Hoa Kỳ trong năm 1993 để xét xử các phạm nhân chiến tranh, nhằm xác
nhận lại quyền điều tra của các nhà lãnh đạo quân sự và chính trị Hoa Kỳ trước
những hành vi cáo buộc là có tội ác. Việc điều tra này vô hạn định và áp dụng
cho tất cả.
Qua câu nói này của Kissinger người ta cũng không nên
hiểu là ánh sáng công lý sẽ lan tràn khắp mọi nơi, mà thực ra là công lý bao
giờ cũng là của kẻ thắng trận và luật lệ chỉ áp dụng cho đối phương và người
thua cuộc. Qua một đoạn khác ông đã gay gắt phản đối việc áp dụng nguyên tắc
Hình luật Quốc tế việc xét xử các nhà lãnh đạo ngoại quốc trước toà án này. Ông
đặt câu hỏi: Làm sao tìm ra nguyên tắc an toàn pháp luật trong thủ tục tố tụng,
đặc biệt là nguyên tắc trưng dẫn bằng chứng và bảo vệ bị cáo, làm sao có thể
tách rời vấn đề pháp lý ra khỏi những quyết địnnh chính trị quốc tế.
Người ta có thể nhận ra rằng ông đã ý thức sự nguy
hiểm của vấn đề mà tác giả đặt ra và cũng suy đoán là ông đang khởi đầu một
cuộc biện hộ cho chính mình về những hành vi trong quá khứ, dù năm nay ông đã
84 tuổi.
Nhận xét
Trước đây đã có nhiều tác phẩm phê bình về đường lối
ngoại giao của Hoa Kỳ và của Henry Kissinger, đặc biệt cũng có những tác phẩm
viết về khiá cạnh đạo đức của nhân vật này. Nhưng đây là lần đầu tiên một hình
thức cáo trạng với dày công sưu tập từ những tư liệu mới được trình bày.
Về hình thức thì đây là một công trình đáng ca ngợi
của tác giả, một ký giả chuyên về điều tra báo chí (investigative journalism).
Thiện chí này được tìm thấy qua nỗ lực tìm kiếm từ nhũng nguồn tài liệu khác
nhau và phức tạp.
Qua nội dung thấy được thì sự nghiên cứu của tác giả
về lĩnh vực Luật Quốc tế, đặc biệt về các phương thức hình sự tố tụng, còn hạn
chế. Tác phẩm này không phải là một cáo trạng đúng nghĩa theo hình thức luật
học, đặc biệt lại càng không đúng theo phương thức hình sự tố tụng trước Toà án
Quốc tế khi mà các kỹ thuật trưng dẫn các tài liệu thiếu khoa học và không
thuyết phục.
Tác giả đã không nêu các bằng chứng xuyên suốt, thống
nhất; đôi khi ông lầm lẫn giữa những sự kiện lịch sử, hậu quả pháp lý cũng như
những phán đoán về đạo đức cá nhân của Kissinger; đôi khi những lời cáo buộc
chỉ dựa trên những cảm xúc trước những bất công hơn là một lời kết luận dựa
trên cơ sở lập luận chặt chẽ của hình luật.
Trong tất cả các tội danh được cáo buộc thì phần liên
hệ đến chiến tranh Ðông Dương có nhìều tính thuyết phục và có triển vọng thành
công trước Toà án Quốc tế nếu các tài liệu được bổ túc đầy đủ và khoa học hơn.
Trở ngại chủ yếu vẫn là tài liệu từ người trong cuộc. Hiện nay các tư liệu của
Henry Kissinger đã được ký gửi tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ không được khai
thác. Theo di chúc của ông thì các tài liệu này được phép sử dụng sau khi ông
chết năm năm. Do đó một đề án khởi tố ông hiện nay khó có cơ may thành công.
Một suy nghĩ cuối cùng của người đọc:
Ðây là một tấm gương can đảm của tác giả đã gây tiếng
vang về mặt chính trị. Liệu người Việt
No comments:
Post a Comment