Ngô
Đình Diệm
Ngô Đình Diệm (chữ Hán: 吳廷琰; 3 tháng 1 năm 1901 – 2 tháng 11 năm 1963) là một chính
khách người Việt
Là một nhà lãnh đạo theo Công giáo La Mã, ông bị
những người theo Phật giáo phản đối vì thực hiện các chính sách thiên vị Công
giáo. Tháng 11 năm 1963, một loạt các vụ biểu tình bất bạo động của Phật tử đã
gây ra những bất ổn xã hội nghiêm trọng, Ngô Đình Diệm cùng em trai của mình là
Ngô Đình Nhu đã bị ám sát trong một cuộc đảo chính năm 1963 do các tướng lĩnh
dưới quyền thực hiện, với sự hỗ trợ của Chính phủ Hoa Kỳ.[2]
Ngô Đình Diệm là một nhân vật quan trọng trong thời
kỳ chiến tranh Việt
Thời niên thiếu
Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại làng
Đại Phong Lộc (nay thuộc xã Phong Thủy) huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong
một gia đình quan lại có truyền thống theo đạo Công giáo lâu đời ở tại Việt
Nam. Vào thế kỉ XVII, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã cải đạo cho dòng họ
ông, nên tên thánh của ông là Gioan Baotixita (João Batista).
Cha ông là Ngô Đình Khả và mẹ ông là Phạm Thị Thân,
quê quán ở làng Đại Phong xã Phong Thủy huyện Lệ Thủy, Quảng Bình. Ngô Đình Khả
từng làm võ quan từ triều Đồng Khánh, theo Nguyễn Thân một người hợp tác với
chính phủ Liên bang Đông Dương (thuộc Pháp) đàn áp các phong trào chống Pháp
như nhóm Văn Thân của Ngự sử Phan Đình Phùng ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông Khả từng
làm tới Thượng thư triều đình nhà Nguyễn kiêm Phụ đạo Đại thần và cũng là cố
vấn của vua Thành Thái.
Ngô Đình Diệm là người con thứ 4 trong gia đình 9 anh
chị em: anh đầu là Ngô Đình Khôi (thứ nhất), chị Ngô Đình Thị Giao (thứ 2), Ngô
Đình Thục (thứ 3), 5 người em là Ngô Đình Thị Hiệp (thứ 5, mẹ của Hồng y
Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận), Ngô Đình Thị Hoàng (thứ 6), Ngô Đình Nhu (thứ
7), Ngô Đình Cẩn (thứ 8), Ngô Đình Luyện (thứ 9). Ngô Đình Khôi làm Tổng đốc
Quảng
Lúc thiếu thời, cha Ngô Đình Diệm tức Ngô Đình Khả
theo Nho học, sau đó ông vào chủng viện học chương trình Pháp, rồi được gửi
sang trường nhà dòng ở Penang, Malaysia để làm tu sinh, nhưng sau đó ông bỏ và
làm quan trong triều Nhà Nguyễn. Năm 1905 ông thăng chức Tổng quan Cấm Thánh.
Là người mộ đạo, Ngô Đình Khả dẫn gia đình ông đi lễ
mỗi buổi sáng. Năm 1907, thấy chính quyền bảo hộ Pháp phế bỏ và đày vua Thành
Thái sang Phi Châu, ông Ngô Đình Khả xin từ quan về quê làm ruộng để tỏ sự bất
mãn. Có thuyết khác cho rằng, vì ông Khả không chịu ký vào đơn yêu cầu Thành
Thái thoái vị, nên bị chính quyền bảo hộ Pháp cách chức.[5] Dù đã từ quan nhưng
ông Ngô Đình Khả vẫn đủ sức để chu cấp cho các con ông ăn học.
Lúc nhỏ, Ngô Đình Diệm ngoài giúp cha làm ruộng còn
cùng người anh Ngô Đình Thục vào học ở trường dòng Pellerin Huế. Cảm thấy cuộc
sống ở trường dòng quá khắt khe, ông đã bỏ học tại trường dòng.
Năm 1913, lúc 12 tuổi, Ngô Đình Diệm thi vào trường
Collège Quốc học, học chương trình tổng hợp bằng tiếng Việt và tiếng Pháp.
Trưởng giáo (tức hiệu trưởng) trường là Ngô Đình Khả – cha ông.
Theo Moyar, tính cách độc lập quá mức của Ngô Đình
Diệm không thích hợp với các khuôn phép trong nhà thờ. Ngoài ra, Ngô Đình Diệm
còn thừa hưởng từ cha tinh thần chống thực dân Pháp xâm lược.[6]
Từ lúc còn nhỏ, ông được quan đại thần Nguyễn Hữu Bài
– bấy giờ là phụ chính trong triều dạy dỗ và coi như con đẻ do có mối quan hệ
gần gũi, người anh của Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khôi kết hôn với con gái của
Nguyễn Hữu Bài.
Tốt nghiệp trung học với thành tích học tập xuất sắc
ở trường Collège Quốc học, Ngô Đình Diệm được trao học bổng đi học ở
Năm 1921, Ngô Đình Diệm tốt nghiệp trường Hậu bổ.
Gia cảnh và giáo dục, đặc biệt là Công giáo và Nho
giáo đã có ảnh hưởng đến cuộc đời và sự nghiệp của Ngô Đình Diệm, cụ thể lên
suy nghĩ của ông về chính trị, xã hội, và lịch sử. Theo Miller, Ngô Đình Diệm “tỏ
ra mộ đạo Thiên chúa giáo trong tất cả mọi việc, từ việc hành lễ thành kính cho
đến thói quen trích dẫn Kinh thánh vào phát biểu của mình”. Ngô Đình Diệm cũng
quy định ngày sinh nhật Khổng Tử là ngày lễ quốc gia và “thích khoe khoang kiến
thức của mình về văn thơ cổ điển Trung Quốc”.[10] Tuy nhiên, việc là tín đồ
Công giáo và là một nhà Nho không có nghĩa là Ngô Đình Diệm bị mắc kẹt bởi
những tầm nhìn tiền hiện đại.
Làm quan triều Nguyễn
5 vị Thượng thư từ trái qua phải: Hồ Đắc Khải, Phạm
Quỳnh, Thái Văn Toản, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn
Sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ với vị trí đứng nhất
lớp vào năm 1921, Ngô Đình Diệm nối bước anh cả Ngô Đình Khôi (lúc này đang làm
việc trong Bộ Binh triều đình Huế) vào quan trường. Bắt đầu bằng chức quan thấp
nhất, Ngô Đình Diệm từng bước được thăng chức. Nơi làm việc đầu tiên của ông là
thư viện hoàng gia ở Huế.[8] Trong cùng năm, ông làm tri huyện Hương Trà, Thừa
Thiên Huế.
Năm 1923, ông được bổ nhiệm làm Tri huyện Hương Thủy,
Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên.[5]
Năm 1926, Ngô Đình Diệm làm tri phủ Hải Lăng, Quảng
Trị, sau đó làm quản đạo phủ Ninh Thuận.
Trong suốt thời gian làm quan, Ngô Đình Diệm có tiếng
là người mẫn cán, công chính, là người theo Công giáo và là người theo chủ
nghĩa dân tộc. Ngoài ra, chủ nghĩa dân tộc Công giáo ở Việt Nam từ thập niên
1920 đến thập niên 1930 cũng tạo điều kiện cho sự thăng tiến trong quan trường
của Ngô Đình Diệm.[11] Sự thăng tiến nhanh chóng của Ngô Đình Diệm một phần nhờ
vào mối quan hệ thân thiết với Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài (anh trai ông,
Ngô Đình Khôi, là con rể của ông Nguyễn Hữu Bài). Nguyễn Hữu Bài (1863 – 1935)
là một người Công giáo ủng hộ việc bản địa hóa Nhà thờ Việt Nam và tăng quyền
lực hành chính cho chế độ quân chủ.[12] Nguyễn Hữu Bài được người Pháp đánh giá
cao, trở thành người bảo trợ cho Ngô Đình Diệm do mối quan hệ chặt chẽ về gia
đình cũng như tôn giáo.[13]
Năm 1929, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm tỉnh trưởng
tỉnh Bình Thuận. Vào các năm 1930 và 1931, Ngô Đình Diệm đã giúp người Pháp đàn
áp cuộc nổi dậy Xô Viết Nghệ Tĩnh của nông dân do những người cộng sản tổ chức.[14]
Theo Fall, Ngô Đình Diệm vùi dập cách mạng vì ông không ủng hộ cách mạng. Ông
cho rằng cách mạng không thể quét sạch người Pháp, nhưng có thể sẽ đe dọa nền
cai trị của triều đình Huế.[15]
Ngày 8 tháng 4, năm 1933, Bảo Đại (1913-1997) đã ban
hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong thêm
5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái
Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Ngô Đình Diệm và Bùi Bằng Đoàn nhằm thay thế các thượng
thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Võ
Liêm, Vương Tứ Đại.[16] Ngô Đình Diệm nhận lời Bảo Đại làm Thượng thư Bộ Lại
(Bộ Nội vụ ngày nay) theo vận động hành lang của Nguyễn Hữu Bài.[17] Ông là vị
thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ.
Thời gian này ông được bầu làm Tổng thư ký đứng đầu
ủy ban cải cách hành chính. Ông đề xướng hai điểm cần tu chính với chính quyền
bảo hộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884, hai
là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề kể
cả chính trị. Việc thống nhất chủ yếu để buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ
khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một viện tổng trú sứ
(résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ.
Vì các đề xướng không được chấp nhận, ông từ chức Thượng thư Bộ Lại ngày 12
tháng 7 năm 1933,[18] chỉ sau 3 tháng nhậm chức.[17] Ngô Đình Diệm lên án Hoàng
đế Bảo Đại “chẳng là gì mà chỉ là công cụ trong tay người Pháp”, và đã vứt bỏ
các huân chương, chức tước được Bảo Đại trao. Sau đó người Pháp đã dọa bắt và
lưu đày Ngô Đình Diệm.[15] Ngô Đình Diệm nổi cơn thịnh nộ và sinh lòng bất mãn
vì ông Eugène Châtel, người vừa nhậm chức khâm sứ Trung Kỳ, đã cùng với Phạm
Quỳnh, Tổng lý Ngự tiền văn phòng, muốn bãi bỏ quyền xử án của các hàng quan
lại địa phương.[19] Phan Bội Châu có bài thơ tặng Ngô Đình Diệm đăng trên báo
Tiếng dân nhân việc ông này từ quan, trong đó có những câu.[20]
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui
Ví chăng kịp lúc làm vai vế
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi
Hoạt động chính trị chống Pháp
Sau khi từ chức Thượng thư Bộ Lại, Ngô Đình Diệm trở
về làm một thường dân sống ở Huế cùng gia đình ông, nhưng vẫn bị giám sát. Ông
dành thời gian cho việc đọc sách, thiền định, đi lễ nhà thờ, làm vườn, đi săn,
và chụp ảnh nghiệp dư.[21] Ngoài ra, ông đẩy mạnh các hoạt động dân tộc chủ
nghĩa qua việc gặp gỡ và giao lưu với các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam, như
Phan Bội Châu, một người bạn của ông. Phan Bội Châu là nhà hoạt động chống thực
dân mà Ngô Đình Diệm kính trọng vì kiến thức Nho giáo uyên thâm của ông, và vì
Phan Bội Châu lập luận rằng những lời dạy của Nho giáo có thể được áp dụng cho
Việt Nam hiện đại.[21]
Ngô Đình Diệm ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để
đang sống lưu vong tại Nhật nhằm thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính
quyền bảo hộ Pháp. Ông bị xem là quá khích giống như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn
Tường Tam.[5] Năm 1933, ông vào Sài Gòn cùng với Nguyễn Phan Long, Lê Văn
Kim,... tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận động chính giới
Pháp tại Paris bãi nhiệm Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không
thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình.
Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên toàn quyền mới Eugene René
Robin đã bãi bỏ chỉ định của Pasquier. Ông vào Huế dạy tại trường Thiên Hựu (
Thời kỳ 1942-1944, Ngô Đình Diệm tham gia thành lập
và lãnh đạo tổ chức Đại Việt Phục hưng Hội, dựa Nhật chống Pháp với thành phần
nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ.
Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này và vây bắt Ngô Đình Diệm ở
tại phủ Cam. Trong thư gửi Toàn quyền Đông Dương, ông Thục kêu gọi Pháp ân xá
cho em mình:[23]
Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại
cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người
An-nam, và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ
nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho
nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân,
chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tĩnh –
tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận
...Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin
thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi
đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự
mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan
lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy
có lợi... Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã
từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến
quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận
tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống
của mình cho nước Pháp.
Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn và
về trú tại lãnh sự Nhật ở Huế. Sau vài ngày, người Nhật đưa Ngô Đình Diệm vào
Đà Nẵng rồi dùng máy bay quân sự chở thẳng vào Sài Gòn trú tại trụ sở hiến binh
của Nhật.[24] Ông cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân
Cường Để lãnh đạo ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung Kỳ để chống
Pháp.[25]
Tại Sài Gòn, ông đã tham gia thành lập Ủy ban Kiến
quốc với mục tiêu phò tá hoàng thân Cường Để. Tuy nhiên Nhật không ủng hộ Cường
Để về nước làm vua mà ủng hộ Bảo Đại lập chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới
là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đã từng mời ông làm thủ tướng trong chính quyền
mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim.[26][cần số trang]
Trong Chiến tranh Đông Dương
Bị
Việt Minh bắt
Sau khi Bảo Đại thoái vị ngày 25 tháng 8 năm 1945,
Mặt trận Việt Minh giành chính quyền, Ngô Đình Diệm cùng với một số người thân
trong gia đình bị Việt Minh bắt ở Tuy Hoà, Phú Yên ngoại trừ Ngô Đình Nhu và
Ngô Đình Cẩn. Anh cả Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khôi cùng con trai mình là Ngô
Đình Huân trên đường bị du kích giải ra Hà Nội thì bị lực lượng áp tải này xử
bắn[27] Nguyên do là trong Cách mạng tháng 8 năm 1945, Ngô Đình Khôi khuyên
hoàng đế Bảo Đại đừng thoái vị vì ông đã tích trữ được một số vũ khí, lại có
thêm Ngô Đình Huân giữ vai trò liên lạc giữa triều đình Huế và Đế quốc Nhật
Bản, nên có người tố cáo cha con ông Khôi có âm mưu cấu kết với Nhật chống lại
Việt Minh.[28] Thời điểm đó, một đơn vị biệt kích Pháp nhảy dù xuống miền Tây
Thừa Thiên nhưng bị dân quân Việt Minh bắt, tài liệu tịch thu được cho thấy
nhóm này có nhiệm vụ liên lạc với các quan lại bản xứ (bao gồm Ngô Đình Khôi)
để lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương nhưng việc chưa thành thì đã bị bắt,
nên Ngô Đình Khôi bị xử bắn vì tội danh thông đồng với Pháp.[29]
Ngô Đình Diệm bị giải ra Hà Nội. Sau đó Ngô Đình Nhu
cũng bị Việt Minh bắt giam rồi được thả. Theo phim tài liệu Sứ mệnh đặc biệt
của Đài Truyền hình Việt Nam nói về chuyến công tác phía nam của ông Hoàng Quốc
Việt trong Cách mạng Tháng Tám, thì ông Hoàng Quốc Việt (sau khi nghe ông Hải,
Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Quảng Ngãi báo cáo đã bắt được Ngô Đình Diệm) đã
thả ông Diệm theo chỉ thị của Hồ Chí Minh rằng các nhân sĩ trí thức phải được
thả ra, và đưa ông Diệm ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh.[30]
Ngô Đình Diệm bị giam tại tỉnh miền núi Tuyên Quang
ít lâu rồi được trả tự do theo lệnh ân xá vào đầu năm 1946[31][cần số trang].
Theo tài liệu của Mỹ, tại Hà Nội, Ngô Đình Diệm gặp Hồ Chí Minh. Ngô Đình Diệm
hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lý do xử bắn anh của ông thì được Hồ Chí Minh giải
thích rằng đó một hành động tự phát của du kích địa phương trong lúc đất nước
đang rơi vào tình trạng hỗn loạn.[32] Sau đó, cũng theo tài liệu của Mỹ, Hồ Chí
Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì cho rằng ông có tài lãnh đạo. Ngô
Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời đó với điều kiện ông được Việt
Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này do đó Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ
Chí Minh.[33][34][35] Tuy nhiên, Hồ Chí Minh vẫn giao cho ông làm phụ tá của
Bảo Đại, là cố vấn tối cao của Chính phủ.
Hoạt
động chính trị
Sau khi được Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm duy
trì các mối liên lạc với một số lãnh đạo Việt Minh với hy vọng có thể thuyết
phục họ bỏ Hồ Chí Minh và quay sang ủng hộ ông. Những cuộc trao đổi này khơi
dậy những quan tâm đáng kể trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Minh ở Nam Bộ trong năm
1947-1948. Nhiều quan chức Việt Minh ngưỡng mộ Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Thục,
thậm chí còn có tin đồn Ngô Đình Diệm đã lôi kéo được tướng Nguyễn Bình, chỉ
huy quân sự cao nhất của Việt Minh ở Nam Bộ, đào ngũ (về sau tin đồn này được
xác định là không đúng). Ông cũng tìm cách liên minh với các lãnh đạo các đảng
phái khác. Giữa năm 1947, ông liên minh với Nguyễn Tôn Hoàn, một lãnh đạo Công
giáo ở Nam Bộ và là thành viên sáng lập Đại Việt Quốc dân Đảng. Suốt mùa thu
năm ấy, Ngô Đình Diệm và Nguyễn Tôn Hoàn cùng hợp tác để thuyết phục những
người chống cộng tham gia một liên hiệp mới với tên gọi Việt Nam Quốc gia Liên
hiệp, mục đích của Liên hiệp là vận động cho một phong trào chính trị mới được
Bảo Đại hỗ trợ.[36]
Tháng 2 năm 1948, Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo phe
quốc gia gặp nhau tại Sài Gòn để thảo ra một kế hoạch đàm phán với Pháp về vấn
đề độc lập của Việt Nam.[36] Năm 1948, khi cựu hoàng Bảo Đại sống lưu vong ở
Hồng Kông đang điều đình với Pháp để ký hiệp định Pháp-Việt, Ngô Đình Diệm sang
Hồng Kông thuyết phục Bảo Đại kiên định trong “vấn đề độc lập dân tộc”. Ông
cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt
Nam.[36] Sau đó khi Bảo Đại ký hiệp định với Pháp ở Hạ Long cho Việt Nam một
nền độc lập hạn chế, Ngô Đình Diệm tỏ ra thất vọng. Ông từ chối lời mời làm Thủ
tướng Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại với lý do “không tin người Pháp, càng không
tin vào nền độc lập nửa vời mà Pháp vẽ ra”[5], và quay về Huế sống với Ngô Đình
Cẩn và có thời gian Ngô Đình Diệm lên sống với vợ chồng Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt.
Ngày 16 tháng 6 năm 1949, Ngô Đình Diệm cho đăng một
tuyên bố hoàn toàn phủ nhận Hiệp ước Elysée bằng cách đòi hỏi quyền tự trị lãnh
thổ cho Việt Nam. Đồng thời, ông cũng thông báo không có ý định hợp tác với
Việt Minh và kêu gọi một phong trào chống thực dân mới dưới sự lãnh đạo của “những
thành viên đã có những cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc” và đặc biệt là “những người
kháng chiến” với ý định thách thức Việt Minh bằng cách lôi kéo một số người
muốn bỏ Việt Minh để ủng hộ ông.[36] Ngô Đình Diệm cũng tuyên bố viễn kiến về
một cuộc cách mạng xã hội ngang với những cương lĩnh chính trị từ các đối thủ
của ông: “... nên biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không phải chỉ là một cuộc
chiến đấu cho độc lập Tổ quốc về phương diện chính trị mà thôi, mà còn là một
cách mạng xã hội để đem lại độc lập cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Để cho
tất cả mọi người trong nước Việt Nam mới có đủ phương tiện để sống xứng đáng
với phẩm cách con người, con người tự do thực sự, tôi chủ trương những sự cải
cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người vẫn luôn
luôn được tôn trọng và được tự do nẩy nở.”[36] Tuyên bố của ông được nhiều
người đọc và được chú ý trên khắp Việt Nam, nhưng nó không thu hút được sự ủng
hộ của quần chúng, cũng không gây tác hại gì cho “giải pháp Bảo Đại”. Trên thực
tế, hiệu quả của nó là chấm dứt sự kiên nhẫn của cả Pháp lẫn Việt Minh trong
việc tìm cách lôi kéo ông khiến ông buộc phải cân nhắc những chiến lược khác và
đi tìm những đồng minh mới.[36]
Sau đó, ông cùng anh mình là Giám mục Ngô Đình Thục
và người em Ngô Đình Nhu thành lập Đảng Xã hội Thiên Chúa giáo.[5] Ngô Đình
Diệm muốn xây dựng một phong trào mới có thể áp đảo cả Pháp và Việt Minh. Ông
chọn một vị trí trung lập bề ngoài trong cuộc xung đột, cố gắng xây dựng và duy
trì quan hệ với cả hai phía. Ngô Đình Diệm hy vọng có thể có thêm thời gian để
mở rộng nhóm ủng hộ mình và gây thiệt hại cho cả hai đối thủ.[36]
Năm 1950, Việt Minh cố gắng giết Ngô Đình Diệm trên
đường ông đi thăm anh là Giám mục Ngô Đình Thục tại Vĩnh Long.[37][38] Ông theo
anh là Giám mục Ngô Đình Thục đi Vatican, rồi sau đó sang Nhật gặp hoàng thân
Cường Để đang sống ở đây.
Vận động chính trị tại Mỹ
Trong thời gian ở Nhật, ông gặp tướng Douglas
MacArthur chỉ huy quân Mỹ tại Nhật để thuyết phục Mỹ ủng hộ nền độc lập của
Việt Nam, nhưng tướng Douglas MacArthur tiếp kiến ông và Giám mục Ngô Đình Thục
rất lạnh nhạt, không có biểu hiện gì cho thấy tướng Douglas MacArthur sẽ ủng hộ
Việt Nam. Theo lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị Đại học
Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ để thuyết phục Tổng thống Mỹ Eisenhower ủng hộ
Việt Nam độc lập.[5] Tháng 9 năm 1950, Ngô Đình Diệm đến Washington gặp các
viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhưng ông không gây được ấn tượng với họ. Sau khi
gặp, một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhận xét Ngô Đình Diệm “quan tâm ngang bằng
nếu không nói là hơn… đến việc thực hiện các tham vọng cá nhân, thay vì giải
quyết những vấn đề phức tạp mà đất nước của ông đang đối mặt ngày hôm nay”.
Tháng 10 năm 1950, Ngô Đình Diệm sang Vatican gặp Giáo hoàng rồi đến Paris gặp
các quan chức Việt và Pháp đồng thời đề nghị Bảo Đại bổ nhiệm ông làm thủ tướng
Quốc gia Việt Nam với điều kiện ông có đủ thẩm quyền để chỉ đạo các cơ quan
hành chính tại Việt Nam nhưng Bảo Đại chỉ trả lời chung chung.[36]
Thời gian hai năm kế tiếp Ngô Đình Diệm sang Mỹ phần
lớn lưu trú tại các trường dòng
“Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y
Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính
trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở
thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn
thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi chính khách: Công giáo nồng
nhiệt và chống Cộng điên cuồng.”
Nhờ sự giúp đỡ của Wesley Fishel, Ngô Đình Diệm làm
cố vấn tại đại học
Trong thời gian sống tại Mỹ, thỉnh thoảng ông cũng
sang các nước châu Âu nên có thêm kinh nghiệm hoạt động chính trị.[5] Tháng 5
năm 1953, theo lời mời của một số chính khách Kitô giáo lưu vong theo chủ nghĩa
dân tộc có khuynh hướng chống Cộng, Ngô Đình Diệm bay sang Pháp rồi sau đó qua
Bỉ trú ngụ tại một tu viện lớn.
Năm 1954, Ngô Đình Diệm từ Bỉ trở lại
Tại cuộc họp do Hội “American Friends of Vietnam”,
một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở
“ “Nếu
chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng hòa]
thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta chủ tọa việc nó
ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó
(…). Đó là con cái của chúng ta - chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không
thể không biết tới những nhu cầu của nó”[41] “
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam
Trở
thành Thủ tướng
Sau 4 năm Hiệp định Elysée được ký kết, lãnh đạo các
đảng phái quốc gia đang mất hết kiên nhẫn với Bảo Đại và chiến lược giành độc
lập từng bước trong Liên hiệp Pháp của Bảo Đại. Pháp rất ít khi nhượng bộ chủ
nghĩa dân tộc tại Việt
Đầu năm 1954, trong khi Pháp đang gặp khó khăn tại
trận Điện Biên Phủ, Bảo Đại liên tục nhờ người chuyển lời với ông Diệm đang ở
Hoa Kỳ, yêu cầu ông trở về nước thành lập chính phủ mới. Ông Diệm tiếp tục từ
chối lời mời của Bảo Đại với lý do không tin tưởng vào người Pháp. Sau khi thất
bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đàm phán hiệp ước trao trả hoàn toàn độc lập cho
Việt
“Từ những gì tôi biết về ông, tôi biết rằng ông Diệm
là một người khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng tín và xu hướng thiên về Thiên
Chúa của ông. Nhưng, trong hoàn cảnh hiện tại, không có một lựa chọn nào tốt
hơn. Ông được người Mỹ biết đến, và họ đánh giá cao tính không khoan nhượng của
ông. Trong mắt họ, ông là người xứng đáng với chức vụ đó nhất, và
Các sử gia vẫn chưa tìm ra được một tài liệu hoặc
bằng chứng nào cho thấy Hoa Kỳ đã bí mật đưa Ngô Đình Diệm vào chức vụ thủ
tướng năm 1954. Vào tháng 5 năm 1954, Bảo Đại hầu như không còn lựa chọn nào
khác ngoài việc giao cho Ngô Đình Diệm chức thủ tướng với những điều kiện mà
Ngô Đình Diệm đã đòi hỏi từ lâu: Quốc gia Việt Nam phải có toàn quyền trong mọi
khía cạnh hành chính, quân sự và kinh tế.[36]
Trong thời kỳ đầu làm thủ tướng Quốc gia Việt
Được
Mỹ ủng hộ
Mỹ cho rằng Hiệp định Genève, 1954 là một tai họa đối
với “thế giới tự do” vì nó trao cho Trung Hoa cộng sản và Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa căn cứ để khai thác tại Đông Nam Á. Mỹ muốn ngăn chặn điều này bằng cách ký
kết Hiệp ước SEATO ngày 8 tháng 9 năm 1954 và mong muốn biến miền Nam Việt Nam
thành một pháo đài chống cộng. Để làm được điều này Mỹ cần sự ủng hộ của Quốc
gia Việt Nam.[42] Kế hoạch của Mỹ là viện trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm để
giúp miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập với Pháp (đó là cách duy nhất để lôi
kéo những người dân tộc chủ nghĩa rời xa Việt Minh và ủng hộ Quốc gia Việt
Nam); Mỹ cũng thúc đẩy Ngô Đình Diệm thành lập một chính quyền đoàn kết quốc
gia đại diện cho những xu hướng chính trị chính tại Việt Nam, ổn định miền Nam
Việt Nam, bầu ra Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp rồi sau đó phế truất Quốc trưởng
Bảo Đại một cách hợp pháp; cuối cùng do Ngô Đình Diệm là một người quốc gia
không có liên hệ gì trong quá khứ với Việt Minh và Pháp do đó miền Nam Việt Nam
sẽ trở nên chống Cộng mạnh mẽ. Công thức này đòi hỏi một sự hợp tác từ cả Pháp
và Mỹ để hỗ trợ Ngô Đình Diệm.[43] Tuy nhiên, Pháp không có thiện cảm với Ngô
Đình Diệm, Ngoại trưởng Pháp Edgar Faure (sau này là thủ tướng Pháp) cho rằng
Diệm “không chỉ không có khả năng mà còn bị điên”[44]... Pháp không thể chấp
nhận rủi ro với ông ta”[45], hơn nữa Pháp đang bị chia rẽ chính trị nội bộ và
gặp khó khăn tại Algérie nên rất miễn cưỡng trong việc giúp đỡ Quốc gia Việt
Nam[46] do đó Mỹ đã tiến hành kế hoạch một mình mà không có Pháp trợ giúp.
Thủ tướng Pháp Edgar Faure còn đe dọa rút hết quân
đội Pháp ra khỏi Đông Dương vào cơ hội sớm nhất, gây thêm xáo trộn. Tổng Tham
mưu Hoa Kỳ thì cho rằng: “Chính phủ Diệm có khả năng lớn nhất để ổn định nội
bộ, một điều cần thiết cho an ninh Việt
Sau những cuộc tiếp xúc với các lãnh đạo Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, một số chính trị gia Pháp cho rằng Quốc gia Việt Nam đã suy yếu
và biện pháp duy nhất có thể cứu vãn tình thế là hợp tác với Việt Minh và lôi
kéo họ khỏi sự ràng buộc với khối cộng sản với hy vọng tạo ra một Việt Minh theo
kiểu Tito có thể cộng tác với Pháp và thậm chí có khả năng tham gia khối Liên
hiệp Pháp. Điều này làm Mỹ lo sợ. Ngày 23/10/1954, tổng thống Hoa Kỳ -
Eisenhower gửi công hàm chính thức cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho biết từ đây
chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ chứ
không qua nhà đương cục Pháp như trước.[47]
Xung
đột với Pháp
Ngô Đình Diệm muốn miền Nam Việt
Phản ứng lại hành động của Thủ tướng Ngô Đình Diệm
đang từng bước loại bỏ ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam, Pháp muốn duy trì ảnh
hưởng tại miền Nam nhưng lại gặp phải một Thủ tướng có tinh thần dân tộc nên họ
tìm mọi cách loại bỏ để thay thế bằng một người lãnh đạo thân Pháp. Thông qua
một số nhân vật ngoại giao như đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài Gòn, đại sứ Mỹ
Douglas Dillon tại Paris, Pháp tìm cách thuyết phục Mỹ đồng ý loại trừ ông Diệm
bằng cách chỉ trích ông thiếu năng lực và không có khả năng đại diện nhân dân
vì không có được sự cộng tác và ủng hộ của các phe phái tại Miền Nam do đó
không có khả năng thắng trong cuộc Tổng tuyển cử dự tính được tổ chức năm 1956.
Tài liệu mật số 1691/5 (ngày 15 tháng 4 năm 1955) của Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận
Pháp muốn giữ vai trò lịch sử lâu dài của mình tại Việt Nam và bảo vệ những đầu
tư kinh tế, tài chính của Pháp tại đây.[44]
Lúc đó, Quốc trưởng Bảo Đại vẫn còn ở Cannes, quân
đội Việt Nam còn nằm trong Liên Hiệp Pháp, và Tổng Tham mưu Trưởng quân đội,
tướng Nguyễn Văn Hinh (con trai cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, người nổi tiếng
thân Pháp) là một sĩ quan cũ trong Không quân Pháp, có vợ là người Pháp. Cảnh
sát do lực lượng Bình Xuyên nắm giữ (thủ lĩnh là tướng Lê Văn Viễn), ngay cả lực
lượng an ninh văn phòng phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm cũng do cảnh sát gửi đến.
Chính vì thế Pháp tìm cách loại trừ Ngô Đình Diệm hoặc bằng một cuộc đảo chính,
hoặc bằng cách thuyết phục Bảo Đại cách chức ông Diệm và bất hợp tác với Mỹ
trong việc huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam. Pháp tổ chức một cuộc họp
chính trị có sự tham dự của tướng Nguyễn Văn Hinh, lãnh đạo các giáo phái, một
số quan chức Pháp và đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài Gòn để đề nghị mọi người
đồng ý thay thế chính phủ Diệm.[44]
Tướng Nguyễn Văn Hinh có tham vọng làm Thủ tướng Quốc
gia Việt
Trước tình thế đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gửi công điện
cho Đại sứ Donald R. Heath và tướng John W. O'Daniel chỉ thị phải “nói không úp
mở (với Pháp và Tướng Hinh) rằng Hoa Kỳ sẽ không dự trù hoặc triển hạn những
viện trợ lâu dài cho quân đội Việt Nam nếu còn một chút nghi ngờ gì về sự trung
thành của vị tổng tham mưu trưởng và các sĩ quan cao cấp.”[44]
Cố vấn quân sự Mỹ là Edward Lansdale, người chịu
trách nhiệm hỗ trợ chính phủ Ngô Đình Diệm, đàm phán với tướng Trình Minh Thế
về việc sử dụng lực lượng vũ trang của ông ta để hỗ trợ cho Thủ tướng Ngô Đình
Diệm và Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
Sau khi Ngô Đình Nhu và Edward Lansdale phát hiện
được âm mưu đảo chính của tướng Nguyễn Văn Hinh, Edward Lansdale đã mua chuộc
được các sĩ quan cấp dưới của tướng Nguyễn Văn Hinh đi nghỉ mát. Thiếu những
thuộc hạ cốt cán này, cuộc đảo chính đã không thể tiến hành được.[50]
Ngô Đình Diệm đã buộc tướng Nguyễn Văn Hinh từ chức,
giao quyền lại cho tướng Nguyễn Văn Vỹ. Nguyễn Văn Hinh chạy đến Paris vào ngày
13 tháng 11 năm 1954.[44][51] Ngô Đình Diệm đồng thời cương quyết từ chối cho
thủ lĩnh Lực lượng Bình Xuyên là tướng Bảy Viễn (tức Lê Văn Viễn) tham gia
chính quyền dù Bảy Viễn đe dọa “tắm máu” Sài Gòn nếu yêu cầu của mình không
được đáp ứng.[5]
Tháng 12 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm xóa bỏ tất
cả các hiệp ước kinh tế, tài chính ký kết với Pháp trước đó, yêu cầu Pháp hủy
bỏ Hiệp định Geneve và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa. Sau đó Ngô Đình Diệm rút đại diện của Quốc gia Việt
Xung
đột với Quốc trưởng Bảo Đại
Ngoài ra Thủ tướng Ngô Đình Diệm trực tiếp đối đầu
với Quốc trưởng Bảo Đại khi ông thông qua Dụ số 21 ngày 11 tháng 3 năm 1955
chính thức sáp nhập vùng đất Hoàng triều Cương thổ lại vào Trung phần[53] chấm
dứt đặc quyền của người Pháp và Cựu hoàng Bảo Đại trên vùng Tây Nguyên và danh
xưng Cao nguyên Trung phần được dùng lại. Ông còn tổ chức những chiến dịch
tuyên truyền chống lại Quốc trưởng Bảo Đại.[54]
Quốc trưởng Bảo Đại thấy không điều khiển được Ngô
Đình Diệm nên cũng tán thành theo người Pháp, gây áp lực đòi Mỹ rút lại mọi ủng
hộ cho chính phủ Ngô Đình Diệm và gây sức ép buộc ông ta phải từ chức. Bảo Đại
muốn đưa Nguyễn Văn Xuân lên làm Thủ tướng, hoặc Phó thủ tướng, Nguyễn Văn Hinh
làm Tổng Tham mưu trưởng còn tướng Bình Xuyên Bảy Viễn làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ.
Các giáo phái lớn tại miền
Ngày 18 tháng 10 năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại ra
thông cáo từ văn phòng của ông ở Paris tuyên bố cách chức Thủ tướng Quốc gia
Việt Nam Ngô Đình Diệm với lý do “việc dùng các biện pháp công an trị và chế độ
độc tài cá nhân phải kết thúc, tôi không thể tiếp tục để tên tuổi và quyền lực
của mình vào tay một người sẽ khiến cả nước rơi vào đổ nát, đói kém và chiến
tranh.”. Tuy nhiên Ngô Đình Diệm đã chặn được thông điệp này khiến nó không đến
được với dân chúng.[55]
Âm mưu thay thế Ngô Đình Diệm của Mỹ
Sau đó, Tổng thống Mỹ Eisenhower cử ông Joseph Lawton
Collins thay thế Donald R. Heath làm đại sứ tại Việt
Khi Collins trở về Mỹ, ngày 22 tháng 4 năm 1955, ông
dùng bữa trưa với Tổng thống Eisenhower. Sau đó ông gặp Ngoại trưởng Dulles
cùng với các đại diện Bộ Quốc phòng và Trung ương Tình báo để thuyết phục các
quan chức Mỹ khác đồng ý thay thế Ngô Đình Diệm và phải có kế hoạch hành động
ngay tức khắc. Collins đề nghị ông Phan Huy Quát thay thế Ngô Đình Diệm. Ngày
27 tháng 4 năm 1955, Ngoại trưởng Mỹ Dulles gửi điện cho Collins rằng “Tướng
Collins và Ely phải thông báo cho ông Diệm biết rằng vì lý do ông không thành
lập được một chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng rãi và ông bị người Việt chống
đối, chính phủ Hoa kỳ và Pháp không còn đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ
chức. Những đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt
Mật điện này lọt ra ngoài, Thủ tướng Diệm biết được
nên đã ra lệnh tấn công quân Bình Xuyên trong lúc ông Collins còn đang trên
đường về Sài Gòn, điều này khiến Mỹ không thể hỗ trợ lực lượng nào tại Việt Nam
gây sức ép buộc Diệm từ chức.[44] Sau đó Bộ ngoại giao Mỹ tiếp tục sẵn sàng xem
xét các đề nghị thay thế Ngô Đình Diệm nhưng không tìm thấy chính trị gia nào
có thể cạnh tranh với Diệm.[49]
Từ
chối tổng tuyển cử
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tuyên bố “Chúng
ta không gạt bỏ nguyên tắc tuyển cử coi như một phương tiện hòa bình và dân chủ
thích đáng để thực hiện nền thống nhất ấy.”, “thống nhất trong tự do, chứ không
phải trong nô lệ” nhưng ông bác bỏ cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vốn
được dự kiến diễn ra vào tháng 7 năm 1956 theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định
Genève với lý do không thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền
Bắc.[56] và bác bỏ ngay cả những thảo luận sơ khởi với Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa về vấn đề tuyển cử thống nhất Việt Nam. Hành động này khiến Ngô Đình Diệm
bẽ mặt ở phương Tây.[57]
Theo Mortimer T. Cohen thì Ngô Đình Diệm không chấp
nhận tổng tuyển cử, vì ông biết rằng mình sẽ thua. Không ai có thể thắng cử
trước Hồ Chí Minh, vì ông là một George Washington của Việt Nam.[58] Báo cáo
của CIA gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng cho rằng khoảng 80% dân số Việt Nam
sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử.[59] Do vậy Hoa Kỳ đã hậu thuẫn
cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17 để
không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam.[60] Cuộc tổng tuyển cử tự do
cho việc thống nhất Việt Nam vì vậy đã không bao giờ được tổ chức.
Theo nhận xét của Tây phương thì Ngô Đình Diệm là kẻ
ngoan cố và khao khát quyền lực chuyên chế, nhưng theo Duncanson thì vấn đề
phức tạp hơn thế. Miền Bắc có dân số đông hơn miền
Năm 1956, Ngoại trưởng Allen Dulles đệ trình lên Tổng
thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử diễn ra thì “thắng lợi của Hồ
Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi”. Trong tình thế này, Ngô
Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève.
Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Theo Cecil B.
Currey, Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt
Báo Độc Lập của Đảng Dân chủ Việt
Theo Cao Xuân Vỹ, một người rất thân cận với Ngô Đình
Nhu, năm 1963, ông và Ngô Đình Diệm bắt đầu tìm cách đàm phán với bên Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc về hòa bình và tái thống nhất bằng việc ngừng chiến
và rồi tổng tuyển cử, nhưng chưa thực hiện được thì họ Ngô bị đảo chính lật
đổ[64]
Tổng thống Việt
Khi Quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh cho Ngô Đình Diệm
sang Pháp để tường trình về việc trấn áp Bình Xuyên thì ông đã sửa soạn ra đi
nhưng những người ủng hộ ông can ngăn. Theo tướng Trần Văn Đôn thì Bảo Đại dự
định khi Ngô Đình Diệm ra khỏi nước sẽ cách chức ngay, đưa Lê Văn Viễn, Tư lệnh
Bình Xuyên lên làm Thủ tướng.[44]
Tại miền Nam, từ 1954-1955, với cương vị thủ tướng,
ông đã dẹp yên và thu phục lực lượng Bình Xuyên, lực lượng vũ trang của các
giáo phái Hoà Hảo, Cao Đài được Pháp đứng sau hỗ trợ nhằm chống lại ông. Trong
nước, ông được Ủy ban Cách mạng Quốc gia gồm nhiều đoàn thể, đảng phái ủng hộ.
Ông cũng được gần một triệu người di cư hậu thuẫn mạnh mẽ. Ngoài nước, Ngô Đình
Diệm đã cương quyết chống trả kế hoạch lật đổ ông của hai tướng Ély-Collins nên
bây giờ được
Quốc gia Việt Nam tổ chức cuộc trưng cầu dân ý miền
Nam Việt Nam, 1955 đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đưa thủ tướng Ngô Đình
Diệm trở thành Quốc trưởng. Cuộc trưng cầu dân ý bị tố cáo là gian lận như tại
Sài Gòn, Ngô Đình Diệm chiếm được 605.025 lá phiếu trong khi khu vực này chỉ có
450.000 cử tri ghi tên.[65][66]
Sau đó Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tổ chức bầu Quốc hội
Lập hiến cho Quốc gia Việt
Ngày 22 tháng 10 năm 1960, Tổng thống Mỹ Eisenhower
gửi thư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm “Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo
bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một
tình huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn
ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến
bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ quá là nhanh chóng...”[44]
Hiến pháp Đệ Nhất Cộng hòa 1956 do chính Ngô Đình
Diệm tham gia soạn thảo đã trao cho ông quyền lực rất lớn, có thể toàn quyền
khống chế bộ máy nhà nước, thể hiện qua những điểm:
Khi Tổng thống phủ quyết một đạo luật, Quốc hội phải
hội đủ số 3/4 mới được tái thông qua. Mà 3/4 này phải “minh danh đầu phiếu”
(điều 58), như vậy Ngô Đình Diệm có thể biết ai đã chống lại quyền phủ quyết
của mình.
Một Viện Bảo hiến có được quy định để nghiên cứu và
quyết định xem các điều khoản có bất hợp hiến không, nhưng viện này gồm 9 người
thì vị chủ tịch và 4 thẩm phán hay luật gia đã do Ngô Đình Diệm bổ nhiệm (điều
86). Tổng thống có quyền đề nghị sửa đổi hiến pháp (điều 90) và Ủy ban sửa đổi
Hiến pháp phải tham khảo ý kiến của Viện Bảo hiến (mà 5/9 người đã là do Tổng
thống chỉ định) và còn của cả Tổng thống nữa (điều 91).
Ngô Đình Diệm không bắt buộc phải điều trần trước
Quốc hội, không chịu trách nhiệm trước Quốc hội và không thể bị Quốc hội bất
tín nhiệm để cách chức. Tổng thống tiếp xúc với Quốc hội “bằng thông điệp” và
nếu muốn “có thể dự các phiên họp của Quốc hội”, cũng như chỉ “khi thấy cần,
Tổng thống thông báo cho Quốc hội biết tình hình Quốc gia” (điều 39).
Tóm lại, theo Hiến pháp 1956, Tổng thống Ngô Đình
Diệm có đầy đủ quyền lực để triệt tiêu hoặc làm tê liệt các đạo luật nào mà ông
không vừa ý, cũng như dễ dàng ban hành và thi hành các đạo luật nào có lợi cho
mình. Ngoài ra, Hiến pháp ghi là dân tộc có “sứ mệnh” trước “Đấng Tạo hóa” nên
nhiều người cho rằng đây chứng minh sự thiên vị của chính quyền với Thiên Chúa
giáo trong khi các tôn giáo khác không được đề cập đến.[67]
Thiếu tướng Đỗ Mậu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa,
trong cuốn hồi ký “Tâm thư”, nói về việc tranh cử nghị sĩ thời Ngô Đình Diệm
như sau:[68]
Thời Đệ Nhất cộng hòa (chế độ ông Diệm) nếu muốn ra
tranh cử để thắng thì ông phải được đảng Cần Lao (của ông Diệm) hay Phong trào
Cách mạng quốc gia đỡ đầu. Ngoài ra ông phải được ông Diệm, ông Nhu, ông Cẩn,
Đức cha Thục, bà Nhu... giới thiệu mới hòng đắc cử. Còn ông mà thân cô, thế cô
mà muốn ra (tranh cử quốc hội) thì cứ việc đóng tiền để mua lấy thất cử! Còn
mánh lới như thế nào thì tìm hỏi mấy người lớn tuổi có liên quan đến tranh cử
sẽ rõ.
Ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền.
Ông chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đình Diệm thường nói: “Chỉ có dân miền
Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân
miền
Nhà báo đương thời tại miền
“ Lúc ấy
sau ba lần thắng Bình Xuyên và áp dụng biện pháp mạnh đối với các giáo phái,
thắng lợi, Ngô Đình Diệm bắt đầu có lông có cánh, ra mặt chống Bảo Đại, không
đi Pháp để trình với Quốc trưởng về các biến cố ở nước nhà, mà ở lì trong nước
tập làm độc tài cỏ, đưa họ hàng lên nắm hết các chức vụ quan trọng… Nam Việt
Nam lúc bấy giờ là một nhà nước cảnh sát do hai gia đình quan lại Trần Văn và
Ngô Đình nắm hết quyền hành. Gia đình Trần Văn còn trung thành phần nào với tập
tục cổ truyền của nhà vua Bảo Đại, chớ họ Ngô Đình thì trắng trợn ly khai với
chế độ cũ và nuôi cái mộng lập một triều đại mới: triều đại Ngô Đình.
Cố nhiên muốn thực hiện mộng đó, phải tàn ác diệt trừ
những cá nhân, đoàn thể chống đối, mà cá nhân và đoàn thể chống đối lúc ấy là
những người gốc ở miền Bắc và miền Nam chỉ muốn nhà Ngô giữ lời đã hứa là tổ
chức một cuộc bầu cử để họ có thể bầu người đại diện của họ lên lo việc nước.
Theo những người có tiếng là chống đối này, ông Diệm “là một lính nhảy dù do Mỹ
thả từ trên trời xuống mà không có rễ ở dưới đất”.
Báo chí cúi đầu theo răm rắp, suy tôn Ngô tổng thống.
Vào chiếu bóng, rạp hát, phải chào cờ và đứng nghiêm nghe nhạc trổi bài “Toàn
dân Việt Nam biết ơn Ngô tổng thống – Ngô tổng thống, Ngô tổng thống… muôn năm”
cho đến khi lá cờ vàng sọc đỏ mờ dần cùng với cái hình ông Diệm lùn mập.
Báo chí không lúc nào ngưng suy tôn Ngô tổng thống.
Mọi việc đều trơn tru, êm đẹp. Nếu không có Ngô tổng thống thì toàn dân chết
không còn một mống. Muôn năm, muôn năm![70]
Thi hành chính sách chống Cộng
Tổng thống Mỹ Eisenhower đón tiếp tổng thống Ngô Đình
Diệm tại Sân bay quốc tế Washington Dulles, ngày 8 tháng 5 năm 1957
Sau khi lên làm tổng thống, ông giữ mọi quyền cai
quản đất nước với người em Ngô Đình Nhu làm cố vấn và cả hai người đều sử dụng
các phương pháp cứng rắn để chống lại những người kháng chiến Việt Minh được sự
hỗ trợ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc. Trong khi nhà nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc Việt Nam được xây dựng dựa trên học thuyết
Marx-Lenin với chính đảng Cộng sản duy nhất thì hai anh em xây dựng Thuyết nhân
vị như là một học thuyết nhằm làm nền tảng ý thức hệ cho nhà nước ở miền Nam
Việt Nam với chính đảng Cần lao Nhân vị.
Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên
tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1955) sẽ rút khỏi lãnh thổ của phía bên
kia. Lực lượng Quân đội nhân dân ở miền
Trong giai đoạn này, Việt Minh chủ trương dùng nhiều
hình thức tuyên truyền chống chính quyền Ngô Đình Diệm và sử dụng các tổ chức
hợp pháp (hội đồng hương, công đoàn, vạn cấy...) tập hợp quần chúng đấu tranh
chính trị đòi thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước, bảo vệ thành quả “cách
mạng”, bảo vệ cán bộ - đảng viên. Hoạt động vũ trang bị hạn chế nên thời kỳ này
chưa có những xung đột quân sự lớn và công khai giữa hai bên. Các vụ bạo lực
chỉ giới hạn ở mức tổ chức các vụ ám sát dưới tên gọi diệt ác trừ gian, hỗ trợ
các giáo phái chống chính quyền Ngô Đình Diệm hoặc thành lập các đại đội dưới
danh nghĩa giáo phái,[75] hoặc dưới hình thức các tổ chức quần chúng (dân canh,
chống cướp...) để đấu tranh chính trị.
Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 quy định “Những
hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp
chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong
Hiến pháp”. Việt Nam Cộng hòa “kêu gọi” những người cộng sản đang hoạt động bí
mật ly khai tổ chức, ra “hợp tác” với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người
bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản.[76] Dù vậy hệ thống tổ chức bí mật của Việt
Minh vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ,
tổ chức những cuộc biểu tình chính trị gây sức ép lên chính phủ Việt Nam Cộng
hòa.
Một
ấp chiến lược ở miền
Chính quyền Ngô Đình Diệm đối phó với những cuộc đấu
tranh chính trị đòi thi hành Tổng tuyển cử thống nhất đất nước bằng cách thực
hiện chiến dịch tố cáo cộng sản nằm vùng nhằm loại bỏ những cán bộ Việt Minh
hoạt động bí mật trên khắp miền
“Thấy cộng sản ở đâu là phải bắn bỏ ngay, thấy ai
tuyên truyền cho cộng sản cũng bắn bỏ ngay”[80] “
Máy chém thời Ngô Đình Diệm (Bảo tàng TP. Cần Thơ).
Theo John Guinane, chỉ tính từ 1957 tới 1959, đã có hơn 2.000 người bị Việt Nam
Cộng hòa hành quyết với tội danh ủng hộ những người cộng sản, thường là bằng
máy chém[81]
Ngô Đình Diệm hiểu rõ những cán bộ Việt Minh là đối
thủ lớn nhất đe dọa quyền lực của ông ta, và uy tín của ông ta không thể sánh
được với Việt Minh, những người vừa lãnh đạo nhân dân đánh bại quân Pháp. Theo
lời khuyên của Edward Lansdale, để xóa đi uy tín của Việt Minh trong nhân dân,
chính phủ Ngô Đình Diệm không gọi họ là Việt Minh nữa mà sử dụng tên gọi mới là
Việt Cộng, để người dân miền Nam tưởng rằng đây là 2 lực lượng khác nhau.[82]
Nhằm triệt để tiêu diệt ảnh hưởng của Việt Minh trong nhân dân, Ngô Đình Diệm
còn ra lệnh đập phá các tượng đài kháng chiến và san bằng nghĩa trang của những
liệt sĩ Việt Minh trong Chiến tranh Đông Dương, một hành vi xúc phạm nghiêm
trọng tục lệ thờ cúng của người Việt.[83]
Theo báo Nhân dân, ngay từ cuối năm 1954, theo lệnh
Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở Ngân Sơn,
Chí Thạnh, Chợ Được, Mỏ Cày, Củ Chi, Bình Thành...[84] Từ tháng 5-1955 đến
tháng 5-1956, Ngô Đình Diệm phát động “chiến dịch tố cộng” giai đoạn 1 trên quy
mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở chiến dịch Thoại Ngọc Hầu càn quét những khu
từng là căn cứ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh. Chính phủ Việt Nam Cộng
hòa tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia phòng vệ, dồn dân lập
ấp chiến lược... một cách quyết liệt[85] không tính đến các đặc điểm tâm lý và
quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Những biện pháp
cứng rắn nhất được áp dụng, ví dụ ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đã nổ
súng trấn áp đoàn biểu tình ở thị xã Gò Công, bắn chết 8 người và 162 người bị
thương.[86]
Trong thời gian từ 1955 đến 1960, theo số liệu của
Việt Nam Cộng hoà có 48.250 người bị tống giam,[71] theo một nguồn khác có
khoảng 24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000
người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa
đi các trại tập trung.[87] Năm 2015, Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, ông
Nguyễn Phú Trọng phát biểu rằng “Trong những năm 1954 - 1959, ở miền Nam đã có
466.000 đảng viên và những người yêu nước bị bắt giam, 400.000 người bị đưa đi
đày và 68.000 người bị giết.”[88]
Việc bắt giam và xử tử diễn ra khắp nơi đã làm biến
dạng mô hình xã hội, khiến dân chúng phản đối chính phủ Ngô Đình Diệm và đẩy
những người kháng chiến (Việt Minh) vào rừng lập chiến khu. Việt Minh đáp trả
bằng những cuộc biểu tình đòi thả cán bộ của họ hoặc tổ chức các cuộc diệt ác
trừ gian - tiêu diệt nhân viên và cộng tác viên của chính quyền Ngô Đình Diệm
được gọi là “bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm”.[89]
Để tăng tính uy hiếp, Việt Nam Cộng hòa sử dụng cả
máy chém để hành quyết phạm nhân. Nhiều vụ xử chém của Việt Nam Cộng hòa được
diễn ra công khai trước dân chúng, đầu phạm nhân được đem bêu để cảnh cáo. Báo
The Straits Times (Singapore) ngày 24 tháng 7 năm 1959 có bài viết tường thuật
cảnh 1.000 người dân xem xử chém ở Sài Gòn[90] Báo Buổi sáng (Sài Gòn) ngày
15-10-1959 có viết: “Theo một phán quyết của phiên xử vắng mặt của Tòa án Quân
sự Đặc biệt ngày 02 tháng 10, Nguyễn Văn Lép, tức Tư Út Lép, một Việt Cộng, đã
bị tuyên án tử hình. Cách đây một tuần, Lép đã bị sa vào lưới của Cảnh sát
trong một khu rừng ở Tây Ninh. Bản án tử hình đã được thi hành … Hiện đầu và
gan của tên tử tù đã được Hội đồng xã Hào Đước cho đem bêu trước dân chúng”[91].
Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua
luật số 91 mang tên Luật 10-59, sau đó được tổng thống Việt Nam Cộng hòa là Ngô
Đình Diệm ký ban hành. Luật này quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc
biệt với lý do “xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa”, mục
đích nhằm tiến hành thanh trừng những người cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Theo
luật 10-59, bị can có thể được đưa thẳng ra xét xử mà không cần mở cuộc điều
tra, án phạt chỉ có hai mức: tử hình hoặc tù khổ sai, xét xử kéo dài 3 ngày là
tối đa, không có ân xá hoặc kháng án; dụng cụ tử hình có cả máy chém. Sau khi
luật này được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy
mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố, đặc biệt là các đảng viên Đảng cộng sản nên
lực lượng bị thiệt hại nặng nề.[92]
Chính sách kinh tế - văn hóa - xã hội
Kinh
tế
Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam Cộng hòa, qua 20
năm trung bình đạt 3,9%/năm (bình quân đầu người tăng 0,8% mỗi năm)
Thời kỳ Tổng thống Ngô Đình Diệm nắm quyền là giai
đoạn mà kinh tế của Việt Nam Cộng hòa tăng trưởng tương đối nhanh (giai đoạn
1955-1960) và tăng trưởng vừa phải (1960-1963), song vẫn giữ được mức độ tăng
giá vừa phải. Ngân sách Nhà nước thời gian đầu cân đối thậm chí có thặng dư,
song từ năm 1961 trở đi bắt đầu chuyển sang thâm hụt. Mức độ đầu tư lớn, nông
và công nghiệp nói chung đều phát triển. Tuy nhiên chính sách ruộng đất không
giải quyết được việc địa chủ chiếm hữu phần lớn ruộng đất, khiến nông dân nghèo
không có kế sinh nhai.
Năm 1955, chính phủ Đệ Nhất Cộng hòa thời Ngô Đình
Diệm quyết định thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt
Năm 1956, Việt Nam Cộng hòa ban hành hiến pháp trong
đó có nêu rõ việc thành lập và vai trò của Hội đồng Kinh tế Quốc gia do Phó
Tổng thống làm chủ tịch. Cũng năm 1956, Việt Nam Cộng hòa gia nhập Quỹ Tiền tệ
Quốc tế.[93]
Tháng 3 năm 1957, Ngô Đình Diệm đọc “Tuyên ngôn của
Tổng thống Đệ Nhất Cộng hòa” trong đó có kêu gọi đầu tư của tư nhân trong và
ngoài nước, cam kết về những quyền lợi họ và những khuyến khích đầu tư (ưu đãi
về thuế thuê mặt bằng sản xuất kinh doanh, thuế lợi tức). Để khuyến khích phát
triển doanh nghiệp, chính phủ đã thành lập Trung tâm Khuếch trương Kỹ nghệ để
giúp đỡ các doanh nhân lập nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp về công nghệ và tín
dụng, hỗ trợ công nghệ và hướng dẫn đầu tư cho doanh nghiệp. Chủ trương của Ngô
Đình Diệm là “Trong địa hạt kỹ nghệ, nỗ lực trước hết của chúng ta là lập những
kỹ nghệ nhẹ, để cung cấp cho thị trường trong xứ, và kỹ nghệ chế biến nông sản”
và “nguyên tắc căn bản để phát triển là tiệt kiệm ngoại tệ nhờ gia tăng xuất
cảng và giảm nhập cảng. Ưu tiên trong chương trình kỹ nghệ hóa dành cho việc
chế tạo những sản phẩm tiêu thụ thông dụng”.[94]
Ngô Đình Diệm cùng em trai ông là Ngô Đình Nhu chủ
trương phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội theo con đường thứ ba là sự kết
hợp những ưu điểm của kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường, là sự dung hòa
giữa chủ nghĩa tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Chính vì thế vai trò của chính phủ
trong phát triển kinh tế thể hiện rõ qua việc triển khai kế hoạch kinh tế 5 năm
(Việt Nam Cộng hòa gọi là Ngũ niên Kinh tế Kế hoạch do Tổng nha Kế hoạch thiết
kế) từ năm 1957 tới 1962 (Kế hoạch Ngũ niên I) và từ năm 1962 tới 1966 (Kế
hoạch Ngũ niên II). Bên cạnh đó, để khuyến khích đầu tư tư nhân, Việt Nam Cộng
hòa có các biện pháp hỗ trợ về tín dụng, chẳng hạn như thành lập Quốc gia Doanh
Tế Cuộc vào năm 1955 mà sau đó được thay thế bằng Trung tâm Khuếch Trương Kỹ
Nghệ vào năm 1958, để hỗ trợ các doanh nghiệp mới (theo cách gọi ngày nay là
ươm tạo doanh nghiệp), hướng dẫn cho các doanh nghiệp về mặt công nghệ và tài
chính, cho doanh nghiệp vay với lãi suất thấp.[95] Từ 1957 trở đi nhờ lượng vốn
đầu tư tăng vọt bao gồm viện trợ của Mỹ, tiền bồi thường chiến tranh của Nhật,
vốn của giới tư sản công thương nghiệp di cư từ miền Bắc nên công nghiệp Việt
Nam Cộng hòa phát triển mạnh.[96]
Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa tích cực triển khai chiến
lược công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu. Các hàng rào thuế quan và phi thuế
quan được dựng lên để bảo hộ một loạt ngành công nghiệp nhẹ. Kết quả phải kể
đến nhà máy giấy đầu tiên ở Việt Nam: nhà máy giấy Cogido An Hảo (1961) ở Biên
hòa, thỏa mãn 30-40% nhu cầu tiêu thụ giấy tại miền Nam;[97] hai xưởng dệt
Vinatexco và Vimytex với năng suất 13,2 triệu mét vải mỗi năm; nhà máy thủy
tinh Khánh Hội năng suất 15.000 tấn/năm; hai nhà máy xi măng, một ở Hà Tiên,
một ở Thủ Đức với năng suất 540.000 tấn mỗi năm; và đập thủy điện Đa Nhim, hoàn
thành năm 1961[98]. Đồng thời, các loại máy móc, kim loại - đầu vào cho các
ngành được bảo hộ - được ưu tiên nhập khẩu. Trong khi hạn chế nhập khẩu, xuất
khẩu được khuyến khích. Một số mặt hàng xuất khẩu còn được chính quyền trợ cấp.
Ngay cả tỷ giá hối đoái cũng được điều chỉnh thuận lợi cho xuất khẩu (thông qua
trừ đi một mức phụ đảm). Thời kỳ 1955-1964 là thời kỳ thuận lợi nhất của xuất
khẩu của Việt Nam Cộng hòa.
Ngô Đình Diệm cùng em trai ông là Ngô Đình Nhu chủ
trương phát triển kinh tế - xã hội theo con đường thứ ba là sự kết hợp những ưu
điểm của kinh tế kế hoạch và kinh tế thị trường, là sự dung hòa giữa chủ nghĩa
tập thể và chủ nghĩa cá nhân. Chính vì vậy vai trò của chính phủ trong phát
triển kinh tế thể hiện rõ qua việc triển khai kế hoạch kinh tế 5 năm (Việt Nam
Cộng hòa gọi là Ngũ niên Kinh tế Kế hoạch do Tổng nha Kế hoạch thiết kế) từ năm
1957 tới 1962 (Kế hoạch Ngũ niên I) và từ năm 1962 tới 1966 (Kế hoạch Ngũ niên
II). Chính phủ Việt Nam Cộng hòa còn thành lập khu công nghiệp (hay khu kỹ nghệ
theo cách gọi tại Việt Nam Cộng hòa lúc đó) để tạo thuận lợi cho đầu tư vào
lĩnh vực chế tạo. Khu kỹ nghệ Biên Hòa được thành lập vào tháng 5 năm 1963, và
Công ty Quốc gia Khuếch trương Khu Kỹ nghệ (SONADEZI - Société nationale du Dévelopment
dé zones industrielles) được thành lập vào tháng 12 năm 1963 để quản lý và phát
triển các khu công nghiệp, Khu kỹ nghệ Phong Dinh (Cần Thơ ngày nay) được thành
lập vào năm 1967, và Khu kỹ nghệ An Hòa - Nông Sơn (Quảng Ngãi) được thành lập
từ trước đó.[99]
Tổng số viện trợ dân sự và quân sự của Mỹ cho Việt
Nam Cộng hòa trong giai đoạn 1955 - 1960 vào khoảng gần 2 tỷ USD. Trung bình
mỗi năm Mỹ viện trợ trên dưới 300 triệu USD. Viện trợ có xu hướng giảm dần, đến
năm 1959 chỉ còn trên 200 triệu USD. Viện trợ kinh tế bao gồm viện trợ thương
mại, viện trợ nông phẩm, viện trợ theo dự án, cho vay. Trong giai đoạn này viện
trợ thương mại đa phần là hàng tiêu dùng, lượng hàng hóa này được Việt Nam Cộng
hòa bán ra thị trường để tăng ngân sách nhà nước. Mỹ chỉ cho Việt Nam Cộng hòa
vay trong giai đoạn 1954-1960 dưới dạng hàng hóa, không cho vay dưới dạng tiền
mặt.[96]
Nhìn chung chính sách phát triển sản xuất nội địa để
thay thế hàng nhập khẩu của Ngô Đình Diệm đã có tác dụng tích cực khiến nền
kinh tế Việt Nam Cộng hòa ngày càng giảm sự phụ thuộc vào viện trợ Mỹ. Một số
chính sách phát triển công nghiệp của Việt Nam Cộng hòa giai đoạn này có thể
coi là tiến bộ, song bất ổn định chính trị (xung đột vũ trang giữa các phe
phái, các vụ đảo chính, sự nổi dậy của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam
Việt Nam) đã hạn chế các chính sách nói trên phát huy hiệu quả.
Ở nông thôn thì Cải cách ruộng đất (lúc đó gọi là “Cải
cách điền địa”) được triển khai từ năm 1955 và kéo dài tới cuối năm 1960. Theo
chính sách này, những ruộng đất của địa chủ bỏ hoang sẽ bị thu hồi và cấp cho
tá điền. Địa chủ không được phép sở hữu quá 100 hecta đất (riêng các đồn điền
dù hơn 100 ha vẫn được phép), số dư ngoài 100 ha sẽ bị buộc phải bán cho chính
quyền để bán lại cho tá điền. Quyết tâm tránh các biện pháp mà Ngô Đình Diệm
coi là “ăn cướp và tra tấn dã man” như phong trào Cải cách ruộng đất tại miền
Bắc, ông chỉ thị cho các quan chức địa phương trả tiền mua số đất vượt quá giới
hạn, chứ không tịch thu.[100] Sau đó chính phủ sẽ chia nhỏ số đất vượt giới hạn
này để bán cho các nông dân chưa có ruộng, và họ được vay một khoản tiền không
phải trả lãi trong kỳ hạn sáu năm để mua. Tá điền được yêu cầu lập hợp đồng
khai thác ruộng đất với địa chủ, gọi là khế ước tá điền trong đó có ghi mức địa
tô mà tá điền phải trả cho địa chủ. Thời hạn khế ước là 5 năm, có tái ký. Tá
điền có quyền trả đất và phải báo trước chủ đất 6 tháng, chủ đất muốn lấy đất
lại phải báo trước tá điền 3 năm.
Tuy vậy, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đình Diệm
đề ra bị nông dân miền
Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và tịch thu
ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, chính sách của Ngô Đình Diệm đã
đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, giới chủ đất chỉ
chiếm 10% dân số đã nắm giữ 55% đất canh tác của cả miền Nam. Nông dân phải trả
lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp cho quân đội. Điều
này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đình Diệm bị mắng chửi
là “tàn nhẫn hệt như bọn Pháp”. Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được Ngô
Đình Diệm thiên vị, cho miễn thuế và hạn mức. Kết quả là tại nông thôn, 75%
người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế
độ Ngô Đình Diệm.[102]
Theo đánh giá của Kevin Gray (Đại học Sussex), chính
sách đất đai của Việt Minh (và sau này là Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam)
là chống lại di sản của thực dân Pháp, cùng với tinh thần dân tộc đã giúp họ có
được sự hỗ trợ mạnh của nông dân. Những chính sách của Ngô Đình Diệm với vấn đề
đất đai thì lại kế thừa các di sản của thực dân Pháp hơn là đưa ra những cải
cách: ông ta đã khôi phục mối quan hệ địa chủ - tá điền, hàng triệu nông dân
từng được Việt Minh phân chia ruộng đất đã bị thu lại đất đai[103]
Joseph A. Amter nhận xét:[104]
Ở nông thôn, Diệm hoàn toàn triệt bỏ chính sách ruộng
đất được lòng dân của Việt Minh trước đây. Năm 1954, sau khi đánh bại người
Pháp, những người Cộng sản đã lấy tất cả đất đai đã được giải phóng chia cho
nông dân. Tác động của cử chỉ đó rất sôi nổi. Như một chiến sĩ du kích đã thừa
nhận: “bọn chúng không hiểu được người nông dân cùng khổ như thế nào. Khi kháng
chiến giải quyết vấn đề ruộng đất thì ở nông thôn có hạnh phúc và nổi dậy mạnh
mẽ. Ý nghĩa cụ thể của nền độc lập là bảo vệ ruộng đất”. Rồi thình lình đúng
vào lúc người nông dân nghĩ rằng ruộng đất là của họ, thì Diệm nhảy ra sân khấu
và dùng sức mạnh giật lấy ruộng đất của họ. Tệ hơn nữa là ông ta chuyển quyền
sở hữu ruộng đất cho bạn bè của ông ta là những địa chủ vắng mặt đến sống ở Sài
Gòn. Đáng ra được làm chủ một mảnh đất nhỏ, mỗi một nông dân lại trở thành một
tá điền lần nữa, chịu những tô thuế mới cho chính phủ Diệm và cho giai cấp có
đặc quyền đặc lợi
Cuộc cải cách ruộng đất của Ngô Đình Diệm nhìn chung
là đã thất bại vì gây bất mãn trong lòng nông dân Nam Việt
Giáo
dục
Năm 1958, dưới thời Bộ trưởng Giáo dục Trần Hữu Thế,
Việt Nam Cộng hòa nhóm họp Đại hội Giáo dục Quốc gia (lần I) tại Sài Gòn. Đại
hội này quy tụ nhiều phụ huynh học sinh, các trí thức, học giả, đại diện của
quân đội, chính phủ và các tổ chức quần chúng, đại diện ngành văn hóa và giáo
dục các cấp từ tiểu học đến đại học, từ phổ thông đến kỹ thuật... Ba nguyên tắc
“nhân bản”, “dân tộc”, và “khai phóng” được chính thức hóa ở hội nghị
này.[105][106] Đây là những nguyên tắc được ghi cụ thể trong tài liệu Những
nguyên tắc căn bản do Bộ Quốc gia Giáo dục ấn hành năm 1959.
Số liệu giáo dục bậc trung học [107]
Niên học Số học sinh Số
lớp học
1955 51.465 890
1959 132.529 [108]
1960 160.500 [109]
1961 228.495 [110]
1963 264.866 4.831
Theo quy định của hiến pháp, giáo dục tiểu học là
giáo dục phổ cập (bắt buộc).[111] Từ thời Đệ Nhất Cộng hòa đã có luật quy định
trẻ em phải đi học ít nhất ba năm tiểu học.[112] Bậc tiểu học thời Việt Nam
Cộng hòa bao gồm năm lớp, từ lớp 1 đến lớp 5 (thời Đệ Nhất Cộng hòa gọi là lớp
Năm đến lớp Nhất). Mỗi năm học sinh phải thi để lên lớp. Ai thi trượt phải học
lại. Các trường công lập đều miễn học phí và các khoản lệ phí khác. Học sinh
tiểu học chỉ học một buổi, sáu ngày mỗi tuần. Theo quy định, một ngày được chia
ra 2 ca học; ca học buổi sáng và ca học buổi chiều.
Tuy nhiên, do ngân sách giáo dục eo hẹp, hệ thống
trường công không đủ nên có nhiều trẻ em nghèo vẫn không thể đến trường. Cho
tới năm 1974, tỷ lệ người dân biết đọc và viết của Việt Nam Cộng hòa ước tính
vào khoảng 70% dân số, tức là sau 20 năm vẫn chưa thanh toán xong nạn mù
chữ.[113]
Ngoài ra, theo tác giả Nguyễn Văn Trung, nền giáo dục
dưới thời Ngô Đình Diệm bị xem là thiên vị Công giáo. Ngô Đình Diệm dành cho
Giáo hội Công giáo quyền chi phối các trường của giáo hội về mặt tinh thần, cốt
bảo đảm thực hiện được nội dung giáo dục “Duy linh” mà thực chất là nội dung
thần học theo lối triết học kinh viện thời Trung cổ. Phần lớn các học bổng đi
học nước ngoài đều rơi vào tay các linh mục hoặc sinh viên gia đình Công
giáo.[114][cần nguồn tốt hơn]
Có nơi Linh mục dùng uy thế của mình để phụ huynh
không cho con học trường công mà phải vào học trường của Giáo hội, nên trường tư
thục của Giáo hội làm tê liệt cả trường công, khiến trường công trở nên trống
rỗng do không tuyển được học sinh.[115][cần nguồn tốt hơn]
Đàn
áp một số lực lượng đối lập
Không chỉ loại trừ những người cộng sản, Tổng thống
Ngô Đình Diệm còn bỏ tù một số chính trị gia đối lập. Có tài liệu cho rằng Hoa
Kỳ không phản đối việc này với lý do trong một xã hội chia rẽ Nam Việt Nam đứng
trước nguy cơ lật đổ của cộng sản nên Tổng thống Ngô Đình Diệm phải có chính
đảng riêng của mình, có chính phủ mạnh để đối phó với tình hình và Hoa Kỳ đã
ủng hộ Ngô Đình Diệm thiết lập một chế độ cực quyền[116]
Chính sách ủng hộ này của Hoa Kỳ tạo mầm mống cho hậu
quả nghiêm trọng trong nền chính trị miền
Báo Nhân dân của Đảng Lao động dẫn lại từ tờ Le
Figaro thiên hữu ở Pháp tháng 2-1961: “Chế độ Diệm là độc tài và không đếm xỉa
gì đến những quyền tự do cá nhân. Tổng thống nắm hết quyền hành, người ta đã
tạo nên một đảng duy nhất để làm việc ép dân chúng vào tổ chức, người ta đã
chăng cả một lưới mật thám và đã khuyến khích việc tố cáo những người “phản bội”.
Ba vạn người chống đối nằm chật các trại tập trung. Tất cả những cố gắng ấy để
đi đến một thất bại: giai cấp tư sản công khai chống đối và nông dân thì
nghiêng về phía Việt Minh. Tôi tin rằng đó là một điểm chủ yếu. Để có thể chống
cộng, không thể chỉ cóp theo kỹ thuật cộng sản.''“.[118]
Thomas D. Boettcher nhận xét về những hoạt động tiêu
diệt các nhóm đối lập của Ngô Đình Diệm:[119]
Trong 10 đô la viện trợ thì 8 được dùng cho nội an
chứ không dùng cho công tác chiến đấu chống những người du kích Cộng sản hay
cải cách ruộng đất. Diệm lo lắng về những cuộc đảo chính hơn là những người
Cộng sản.
...Như là hậu quả của những biện pháp đàn áp càng
ngày càng gia tăng, sự bất mãn của quần chúng đối với Diệm cũng càng ngày càng
tăng, bất kể là toan tính của Diệm dập tắt sự bất mãn này trong mọi cơ hội.
Hàng triệu nông dân ở những vùng quê trở thành xa lạ đối với Diệm. Không lạ gì,
hoạt động của những người Cộng sản gia tăng cùng với sự bất mãn của quần chúng.
Và những biện pháp đàn áp của Diệm cũng gia tăng theo cùng nhịp độ. Nhiều ngàn
người bị nhốt vào tù.
Vấn
đề tôn giáo
Chính quyền Ngô Đình Diệm tiếp tục áp dụng quy định
trong Đạo dụ số 10 của Quốc trưởng Bảo Đại: “Hội là Hiệp ước của hai hay nhiều
người thỏa thuận góp kiến thức hay hành lực một cách liên tiếp để theo đuổi mục
đích không phải là phân chia lợi tức, như là mục đích thuộc về tế tự, tôn giáo,
chính trị, từ thiện, khoa học, văn học, mỹ nghệ, tiêu khiển, thanh niên, thể
thao và đồng nghiệp ái hữu.”. Ngoại trừ Hội Truyền giáo Thiên Chúa và Gia Tô,
các Hoa Kiều Lý Sự Hội có quy định riêng, đạo dụ này xem các tôn giáo là các
hiệp hội văn hóa thể thao. Những bộ phận của từng giáo phái có hành động chống
đối đều bị Ngô Đình Diệm huy động quân đội trấn áp, đánh dẹp.[120]
Thời kỳ 1955-1963, lễ Noen tại các trường học được
nghỉ đến 15 ngày. Trong khi đó, ngày 9/1/1956, Ngô Đình Diệm ra Dụ số 4 hủy bỏ
ngày lễ Phật đản trong danh sách những ngày lễ cho các học đường, công chức và
binh sĩ. Điều này gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội nói chung và Tăng
Ni, Phật tử miền
Trong các ngày lễ của Thiên Chúa giáo, chính quyền
Ngô Đình Diệm đã tạo nhiều điều kiện hết sức to lớn cho việc tổ chức hành lễ.
Văn thư số 124 ngày 1/8/1963 của Ủy ban Liên phái Bảo vệ Phật giáo gửi ông
Frederick E. Nolting (đại sứ Mỹ tại Sài Gòn) phản ánh: “Mỗi năm lễ Giáng sinh
đều được cử hành với sự tham gia trực tiếp và hữu hiệu của Chính phủ, nào thông
điệp của Tổng thống, công sở treo cờ trang hoàng, nào Công giáo độc chiếm Đài
quốc gia để phát thanh trong mấy ngày liền trên hệ thống A chính thức, nào bắt
toàn thể nhân viên của Phủ Tổng thống, các ông bộ trưởng, các công chức cao
cấp, kể cả những người theo đạo Phật phải dự lễ nửa đêm... Quá quắt hơn hết là
việc năm rồi, một hang đá (phỏng theo câu chuyện Jesus chào đời) được đặt ngay
tại Tòa Đô chính, làm như toàn dân Châu thành Sài Gòn là người Thiên Chúa giáo.”[121]
Trên núi Thiên Bút, tỉnh Quảng Ngãi vốn có nền cũ của
chùa Phật giáo, chính quyền Ngô Đình Diệm cho xây nhà thờ Công giáo trên đó.
Tín đồ Phật giáo địa phương phản ứng quyết liệt. Ngày 27/7/1961, quân Việt Nam
Cộng hòa bắn hàng loạt đạn cối vào chùa Cao Dân, xã Tân Lộc (Cà Mau) khi 200
người dân và sư sãi Khmer đang làm lễ nhập hạ, làm 20 người chết và bị
thương.[120]
Ngô Đình Diệm - một người Công giáo sùng đạo - coi
tôn giáo là vũ khí hữu hiệu để thực hiện chống Cộng. Trong hội nghị “Liên minh
chống cộng châu Á” họp tại Sài Gòn tháng 3 năm 1957, Ngô Đình Diệm tuyên bố “chúng
ta đừng quên vũ khí chân lý sẵn có trong kho tàng tôn giáo. Sử dụng vũ khí đó
là mục tiêu của liên minh chống cộng châu Á”[120]. Trong cuốn “Thập giá và lưỡi
gươm”, Linh mục Trần Tam Tỉnh nhận xét:[120]
“Từ năm 1955 đến năm 1963 là thời vàng son của chủ
nghĩa cha chú, với những lợi ích thật chẳng có bao nhiêu, nhưng với những hà
lạm gây nhiều tiếng tăm hơn, nhất là trong khi dân chúng gồm 90% là người ngoài
Công giáo mà bị kìm hãm dưới một thứ “Chính phủ Công giáo”. Khắp nơi, ở thành
phố cũng như tại nông thôn, chiếc áo chùng thâm là biểu tượng của quyền thế
... (Ngô Đình Diệm) chỉ chấp nhận một đảng duy nhất
là Đảng Cần lao, được thành lập và khuynh loát bởi ông em Ngô Đình Nhu, làm
nòng cốt cho cái ông gọi là Phong trào Cách mạng quốc gia... Hệ tư tưởng của
Đảng này và của phong trào là “thuyết vị nhân”. Chỉ có một trường đào tạo duy
nhất là “Trung tâm đào tạo nhân vị”, do một người anh của Tổng thống là Giám
mục địa phận Vĩnh Long, Ngô Đình Thục sáng lập. Là người Công giáo hay không,
tất cả công chức đều phải qua một khóa học tập ít nhất là một tháng tại đó. Các
lớp học đều do các linh mục đảm nhiệm, nhồi nhét những khái niệm về nhân bản
con người được Thiên Chúa sáng tạo, giảng về những điều lầm lạc của Phật giáo,
Khổng giáo, về các tội ác của Cộng sản… Cuộc “tẩy não” này do chính các linh
mục thực hiện. Họ là những người chỉ biết có triết học kinh viện Tây Âu và “đã
tiếp thụ tại Roma các khái niệm về Phật giáo do các cố cựu Thừa sai dạy cho”
Năm 1959, Ngô Đình Diệm tuyên bố đặt Việt Nam Cộng
hòa dưới “sự bảo trợ của Đức Mẹ Maria”. Người Công giáo được Ngô Đình Diệm tín
nhiệm về mặt chính trị, trở thành nguồn nhân lực chủ yếu của bộ máy hành chính,
chính trị, quân sự. Một linh mục cho biết: “Trong một nước chỉ có 10% dân số là
(tín đồ) Công giáo mà tại Quốc hội, có tới 30% dân biểu Công giáo với 3 vị chủ
tịch Quốc hội liên tiếp là Công giáo; trong bộ máy hành chính, có 9/14 tỉnh
trưởng miền Trung và 14/18 tỉnh trưởng miền Nam là Công giáo; trong chính phủ
có 4/12 bộ trưởng là Công giáo; trong quân đội, 3 trong số 16 tướng lĩnh là
Công giáo”[122] Cho đến năm 1963, trừ thị trưởng Đà Lạt là người theo Phật
giáo, tất cả các tỉnh trưởng, thị trưởng tại miền Trung và Tây Nguyên đều là
tín đồ Thiên chúa giáo. Tỉnh trưởng nhiều tỉnh ở Nam phần như: Gia Định, Bình
Tuy, Long Khánh, Phước Thành, Phước Long, Định Tường, Kiến Hòa, Vĩnh Long… đều
là người Công giáo[123]
Trong xã hội tồn tại dư luận về thái độ thiên vị tôn
giáo của Ngô Đình Diệm. Điều này đã tạo ra hiềm khích tôn giáo gay gắt và nó đã
phát tác thành xung đột chính trị lớn sau đó vài năm, dẫn đến cuộc Khủng hoảng
Phật giáo 1963. Cuộc khủng hoảng này đã góp phần làm sụp đổ chế độ Ngô Đình
Diệm.[120]
Mỹ
đưa quân vào Việt Nam
Có những thông tin khác nhau về việc Ngô Đình Diệm có
muốn Hoa Kỳ (và cả Trung Hoa Dân Quốc) đưa quân vào tham chiến trực tiếp tại
Việt
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Ngô Đình Diệm nhờ Linh mục
Raymond de Jaegher, người Bỉ quốc tịch Mỹ, xin với Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cho
Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Sài Gòn với lý do bảo vệ công dân Mỹ và kiểm
soát phi trường Tân Sơn Nhất.[124] Sau thất bại của Mỹ tại Lào và Cuba, Tổng
thống Kenedy quyết định chọn Việt Nam làm nơi đọ sức với Liên Xô. Tổng tham mưu
trưởng Mỹ đề nghị “Để thuyết phục ông Diệm thì hay nhất là lấy cớ đem quân 'vào
để huấn luyện', rồi đem một đơn vị chiến đấu quân vào đóng ở Việt Nam với công
tác là giúp thiết lập hai doanh trại huấn luyện.”[125] Ngày 20 tháng 10 năm
1961, tướng Mỹ Maxwell D. Taylor hội thảo với Ngô Đình Diệm lần đầu tiên, Ngô
Đình Diệm đề nghị một hiệp ước hỗ trợ quân sự, gia tăng quân số Việt Nam Cộng
Hòa và yểm trợ không quân của Mỹ. Ngày 27 tháng 10 năm 1961, Taylor hội thảo
với Ngô Đình Diệm lần thứ hai và đề nghị đưa bộ binh Mỹ vào miền Nam Việt Nam
với nhiệm vụ chính thức là cứu lụt, Diệm rất tán thành. Tư liệu trong kho
Cambodge-Laos-Vietnam ghi nhận Ngô Đình Diệm “không những muốn đón nhận quân
chiến đấu Mỹ và các nước đồng minh, mà còn tuyên bố đại đa số dân miền
Trong buổi họp ngày 13 tháng 10 năm 1961, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Đình Thuần đã đề nghị Mỹ hãy duyệt gấp
những yêu cầu của Ngô Đình Diệm, trong đó đó đề nghị Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc
(Đài Loan) gửi quân đến Việt Nam, cụ thể[126]:
Gửi thêm các phi đoàn khu trục cơ AD-6 và các phi
công dân sự Mỹ để điều khiển máy bay.
Gửi quân Mỹ tác chiến hoặc quân Mỹ “cố vấn tác chiến”
cho quân Việt Nam Cộng Hòa. Một phần quân số này sẽ đóng gần vĩ tuyến 17 để
Việt Nam Cộng Hòa rảnh tay chống quân du kích dân tộc thiểu số ở
Xin được biết phản ứng của Mỹ đối với đề nghị (của
ông Diệm) xin Trung Hoa Dân Quốc gửi một sư đoàn quân tác chiến vào khu vực
hành quân ở vùng Tây
Tờ rơi tuyên truyền viết rằng chất độc màu da cam mà
Mỹ rải xuống “tuyệt nhiên không gây độc hại, hít phải hàng ngày cũng không sao”
Trong thực tế, quân số của Mỹ ở Việt
Vào năm 1961, chất độc màu da cam và các loại thuốc
diệt cỏ khác bắt đầu được thử nghiệm bởi quân đội Hoa Kỳ ở Việt
Năm 1962, Ngô Đình Diệm gửi thư cho phó Tổng thống Mỹ
Lyndon Johnson trong đó viết “Những biến chuyển gần đây tại Lào đã làm nổi bật
mối quan ngại trầm trọng của chúng tôi về nền an ninh của Việt Nam Cộng hòa với
những đường biên giới kéo dài và dễ bị tấn công...”. Trong một báo cáo, Edward
Landsdale nhận xét về Việt
Tuy nhiên, nguồn khác cho biết đến năm 1963, Ngô Đình
Diệm muốn quay sang tìm giải pháp hòa bình. Theo bộ trưởng kinh tế Việt Nam
Cộng hòa Nguyễn Tiến Hưng, đầu năm 1963, Ngô Đình Diệm đã nhìn thấy “bầu trời
tím”. Qua cố vấn Ngô Đình Nhu, ông liên lạc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để
đàm phán về hiệp thương rồi từng bước tiến tới thống nhất Việt Nam trong hòa
bình. Theo người trung gian giữa hai bên là đại sứ Ba Lan là ông Mieczyslaw
Maneli, trong Phái đoàn kiểm soát đình chiến, thì chính phủ Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa sau cả năm suy nghĩ đã đồng ý hợp tác với Diệm để thống nhất Việt Nam.
Khi biết chuyện này, đại sứ Lodge, rồi Bộ trưởng McNamara và tướng Taylor báo
cáo cho Tổng thống Kennedy rằng Ngô Đình Diệm định làm trái với mục tiêu của
Mỹ: “Sự ve vãn của ông Nhu với ý định điều đình (với Hà Nội) - cho dù là nghiêm
chỉnh hay không đi nữa - cũng đã cho thấy có sự bất tương phùng căn bản đối với
những mục tiêu của Hoa Kỳ”.[125]
Còn theo lời Bùi Kiến Thành, cộng sự thân cận với
Tổng thống Ngô Đình Diệm thì đến năm 1962, Ngô Đình Diệm không muốn Mỹ đưa quân
vào Việt Nam mà muốn đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính vì
điều này mà người Mỹ đã chỉ đạo các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khởi động cuộc
đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm:
“... Khi Mỹ muốn vào Việt Nam năm 1962 ông Diệm nói
với người Mỹ rằng các ông nên nhớ trên đất nước tôi trong 4.000 năm lịch sử
không có một chế độ nào đi theo quân đội nước ngoài mà có thể được nhân dân ủng
hộ. Vì vậy ngày nào quân đội Mỹ đặt chân lên đất nước này chúng tôi sẽ mất
chính nghĩa, mà khi mất chính nghĩa thì các ông không thể nào thắng được và
chúng tôi (Việt Nam Cộng Hòa) cũng phải thua theo. Vì vậy ngày nào quân Mỹ đổ
bộ lên đất nước này thì kể như ngày đó chính nghĩa Việt
Đến tháng 5/1963, khi trả lời phỏng vấn tờ Washington
Post, ông Nhu tuyên bố Mỹ có thể rút đi một nửa số cố vấn. Đại sứ Pháp
Lalouette, cho rằng “quyết định của ông Nhu vào hồi tháng 4 yêu cầu rút cố vấn
cấp tỉnh đã là lý do chính để người Mỹ quyết định lật đổ ông Diệm”. Sau đó tân
Đại sứ Mỹ Lodge thông báo về
Theo ông Cao Xuân Vỹ, người cùng đi với Ngô Đình Nhu
gặp Phạm Hùng, Diệm muốn quá trình hiệp thương Nam - Bắc Việt Nam phải có 6
giai đoạn: cho phép dân hai miền trao đổi thư tín tự do, cho dân qua lại tự do,
cho dân hai bên được tự do chọn nơi định cư giữa hai miền, trao đổi kinh tế,
hiệp thương chính trị, tổng tuyển cử[129]. Còn theo Mieczyslaw Maneli, Trưởng
đoàn Ba Lan trong Ủy Hội Kiểm Soát Đình Chiến, thì “Mùa Xuân năm 1963, Đại sứ
Pháp Lolouette nói với tôi là Tổng thống Diệm và em của ông có nhờ tôi tìm hiểu
với Chính phủ Hà Nội xem có khả năng nào để giải quyết cuộc chiến bằng phương
tiện hòa bình hay không. Trong mấy tháng sau đó tôi đã thảo luận nhiều với giới
lãnh đạo cao cấp nhất kể cả Chủ tịch Hồ Chí Minh và Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
Câu hỏi căn bản tôi đặt ra cho họ là: trong trường hợp Mỹ rút khỏi Miền Nam,
những bảo đảm thực sự nào Miền Bắc có thể đem ra để chứng tỏ rằng một Việt Nam
thống nhất sẽ không phải là một nước của thế giới Cộng sản? Lãnh đạo Miền Bắc
thảo luận nhiều lần và dần dần đi tới một kế hoạch mà tôi đã dựa vào đó để thảo
luận với một nhóm các đại sứ Tây phương. Theo như kế hoạch này, hai Miền Bắc -
Tuy nhiên, một số người khác thì đánh giá rằng việc
liên lạc với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để đàm phán là quyết định riêng của Ngô
Đình Nhu, người được coi là mưu mẹo và thực tế hơn, còn Ngô Đình Diệm không có
được sự uyển chuyển về chính trị như vậy. Bản thân Ngô Đình Diệm khi đó vẫn
muốn tiếp tục chiến tranh, với việc Mỹ liên tục tăng cường thêm quân tại Việt
Can
thiệp vào nội bộ Campuchia và Lào
Với Lào, quốc gia láng giềng, chính quyền Diệm đã
quyết định đoạn giao khi Chính phủ của hoàng thân Souvanna Phouma công nhận và
thiết lập liên lạc ngoại giao với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào năm
1962. Ngay như Campuchia, một quốc gia liền kề cũng đã từ chối không công nhận
về mặt pháp lý đối với chính quyền Ngô Đình Diệm. Ngày 2 tháng 2 năm 1956 Ngô
Đình Diệm đã đóng cửa biên giới không cho hàng hóa nhập vào Campuchia. Như vậy,
thất bại lớn nhất trong chính sách đối ngoại của chính phủ Ngô Đình Diệm ở Đông
Nam Á là không lôi kéo được Lào Và Campuchia ủng hộ mình.[133]
Tháng 2 năm 1959, cơ quan Tình báo Phủ Tổng thống
Việt Nam Cộng hòa hợp tác với tướng Campuchia Dap Chhoun âm mưu đảo chính lật
đổ quốc vương Norodom Sihanouk để đưa Sơn Ngọc Thành lên làm lãnh đạo Campuchia
do Sihanouk có khuynh hướng ngả theo Bắc Kinh. Khi cuộc đảo chính bùng nổ thì
lực lượng Quân khu V và Quân khu II của Việt Nam Cộng hòa sẽ tiến đến biên giới
giúp Dap Chhoun chiếm lĩnh khu vực Đông - Bắc Campuchia. Tuy nhiên, giờ khởi sự
bị đình lại vì Sơn Ngọc Thành qua Thái Lan để xin viện trợ quân sự cho mặt trận
phía Tây. Chính sự trì hoãn này đã làm cho âm mưu bị bại lộ. Ngay khi phát hiện
âm mưu đảo chính, Sihanouk giao Lon Nol thống lãnh lực lượng lính dù mở cuộc
tấn công chớp nhoáng vào Siem Reap khi Dap Chhoun còn ngủ. Dap Chhoun cải trang
trốn thoát. Quân Lon Nol chiếm dinh thống đốc Siem Reap và bắt được đầy đủ tang
vật gồm 100 kg vàng, hai điệp viên Việt Nam Cộng hòa và đài vô tuyến cùng một
số vũ khí. Hôm sau, Sihanouk mời tất cả viên chức ngoại giao nước ngoài, trong
đó có ông Ngô Trọng Hiếu, đặc sứ Việt Nam Cộng hòa tại Campuchia, đến Siem
Reap. Tại dinh thống đốc Siem Reap, Sihanouk không ngớt lời thóa mạ “kẻ thù dân
tộc Khmer” và bọn “tay sai đế quốc” rồi trưng ra tất cả nhân chứng lẫn vật
chứng trong đó có 100 kg vàng đóng dấu ngân khố Việt Nam Cộng hòa, hệ thống
điện đài và hai điệp viên mang thông hành Việt Nam Cộng hòa. Hai điệp viên Việt
Nam Cộng hòa bị kết án tử hình còn Dap Chhoun bị lực lượng lính dù của Lon Nol
bắt và hạ sát.[134]
Báo Nhân dân dẫn theo các báo Campuchia ngày 22 tháng
6 năm 1961 cho biết tòa án Quân sự Campuchia kết án tử hình một điệp viên chính
quyền Ngô Đình Diệm, về tội “mưu sát quốc vương và hoàng hậu Campuchia” và tội “làm
gián điệp cho Mỹ - Diệm phá hoại nền an ninh Campuchia”. Người này là chủ nhiệm
tờ Hồn Việt và tờ Tự do xuất bản tại Phnôm Pênh các năm 1956-1957. Chính phủ
Campuchia bắt được nhiều giấy tờ tỏ rõ điệp viên này nhận lệnh của chính quyền
Ngô Đình Diệm “âm mưu phá hoại nền an ninh Campuchia”, trong đó có cả thư khen
của ông Diệm gửi cho ông ta.[135] Kế hoạch ám sát Sihanouk được ông Ngô Đình
Nhu và Trần Kim Tuyến thảo luận chi tiết, sau khi mưu đảo chính tại Campuchia
thất bại. Tuy nhiên âm mưu ám sát bất thành do Sihanouk may mắn thoát
chết.[134] Phạm Trọng Nhơn là thủ phạm của vụ này.[136] Theo báo An ninh Thế
giới, Sihanouk thoát chết là nhờ một điệp viên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là
Ba Quốc (tên thật là Đặng Trần Đức), phụ tá Phó Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị
Xã hội Việt Nam Cộng hòa, tham gia vào âm mưu ám sát đã cố ý cài đặt bom lệch
giờ[137].
Theo báo Nhân dân, dẫn lại Đài Tiếng nói Lào, hơn
mười ngày sau cuộc đảo chính ngày 9 tháng 8 năm 1960 ở Viêng Chăn, hàng nghìn
binh sĩ Mỹ, Thái Lan, Philippines, lính Đài Loan, Việt Nam Cộng hòa đã đến
Savannakhet chuẩn bị tấn công Viêng Chăn.[138] Ngày 31 tháng 1 năm 1961, Đại tá
Hà Văn Lâu trưởng phái đoàn liên lạc của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa gửi điện đến
Ủy ban quốc tế, cho biết sau cuộc gặp giữa Nguyễn Khánh và Trần Văn Đôn với
Phoumi Nosavan và Boun Oum, chính quyền Diệm đã cho ba đơn vị bộ binh của trung
đoàn 1 và 2 thuộc sư đoàn I của quân khu 2 sang Lào.[139]
Các
lần bị ám sát
Từ năm 1957 đến năm 1962, Ngô Đình Diệm nhiều lần bị
ám sát nhưng đều may mắn thoát chết. Có thể kể đến 2 vụ tiêu biểu: Lần đầu tiên
do Hà Minh Trí, một người cộng sản dưới danh nghĩa thành viên Cao Đài thực hiện
ngày 22 tháng 2 năm 1957 tại “Hội chợ Kinh tế Cao nguyên” ở Buôn Ma Thuột,[140]
lần thứ hai do hai phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa là Nguyễn Văn Cử
và Phạm Phú Quốc, vốn là đảng viên Đại Việt Quốc dân Đảng, ném bom vào dinh
Tổng thống ngày 27 tháng 2 năm 1962.[141] Nguyễn Văn Cử là con trai thứ hai của
Nguyễn Văn Lực, một lãnh đạo của Đại Việt Quốc dân đảng, người mà trước đó đã
bị Ngô Đình Diệm bỏ tù một thời gian vì các hoạt động chống đối. Vụ ném bom của
Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc làm sập một góc của dinh Tổng thống, khiến 3
người phục vụ và lính gác bị chết, 30 người khác bị thương, song Ngô Đình Diệm
đã kịp xuống hầm trú ẩn an toàn.
Bị
đảo chính lần thứ nhất
Đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa năm 1960 là cuộc đảo
chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng hòa, do đại tá Nguyễn Chánh Thi và
trung tá Vương Văn Đông cầm đầu. Mục đích cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống
Ngô Đình Diệm. Ban đầu, quân đảo chính kiểm soát được một số vị trí quan trọng
tại Sài Gòn do yếu tố bất ngờ, tuy nhiên nhanh chóng thất bại khi các thủ lĩnh
quân sự không kiên quyết cũng như không có được sự ủng hộ quần chúng.
Kế hoạch đảo chính đã được Vương Văn Đông và các quan
chức bất bình với chế độ Ngô Đình Diệm, trong đó có Đại tá Nguyễn Chánh Thi,
chuẩn bị trong một năm. Vương Văn Đông đã cấu kết được với một trung đoàn xe
thiết giáp, một đơn vị hải quân và ba tiểu đoàn quân nhảy dù. Cuộc đảo chính
được dự định vào 5 giờ sáng ngày 11 tháng 11. Tuy nhiên kế hoạch đã được thực
hiện không hiệu quả, quân nổi loạn đã không tuân thủ chiến thuật đã được viết
ra như chiếm giữ đài phát thanh và phong tỏa các con đường vào đô thành Sài
Gòn. Họ cũng đã không thể cắt đường dây liên lạc điện đàm vào dinh Độc Lập,
điều này khiến cho Ngô Đình Diệm có thể liên lạc được với các đơn vị trung
thành đến bảo vệ mình. Quân đảo chính đã bao vây dinh Độc Lập nhưng trì hoãn
tấn công trong 36 giờ vì tin rằng Ngô Đình Diệm sẽ tuân thủ theo yêu sách của
họ. Lợi dụng thời gian trì hoãn này, Ngô Đình Diệm đã xuống tầng hầm dinh Độc
Lập và viết một bài diễn văn hứa hẹn sẽ có bầu cử tự do và công bằng và các
biện pháp tự do khác. Khi các thỏa hiệp đang được phát trên các phương tiện
truyền thông ngày 12 tháng 11, lực lượng trung thành với Ngô Đình Diệm đã tiến
vào Sài Gòn. Cuộc giao tranh diễn ra chớp nhoáng nhưng khốc liệt với khoảng 400
người chết, trong đó có nhiều thường dân tò mò xuống phố để xem giao tranh. Lực
lượng trung thành với Ngô Đình Diệm đã tiêu diệt gọn quân đảo chính.
Sau cuộc chiến là một cuộc đàn áp của Ngô Đình Diệm
với những người chỉ trích và nhiều bộ trưởng nội các bị bỏ tù. Một số sĩ quan
quân đội và chính khách đối lập liên quan đến cuộc đảo chính bị chính quyền Ngô
Đình Diệm thanh trừng và đưa ra xét xử, tiêu biểu như vụ án nhà văn Nguyễn
Tường Tam.
Khủng hoảng Phật giáo
Các mối quan hệ của chế độ Ngô Đình Diệm với Hoa Kỳ
đã trở nên tồi tệ hơn trong năm 1963, do sự bất mãn ngày một tăng trong phần
lớn Phật tử ở miền Nam Việt
Nhưng thượng tọa Thích Trí Quang vẫn quyết định tiếp
tục đấu tranh nhằm chống lại quy định của chính quyền.[143] Trong lúc Phật tử
tụ tập trước đài phát thanh Huế chờ nghe bài diễn văn của Thượng tọa Thích Trí
Quang đã xảy ra vụ nổ giết chết 9 thường dân không vũ trang. Mặc dù tỉnh trưởng
bày tỏ sự cảm thông và chia buồn sâu sắc đối với thân nhân những người chết và
đề xuất bồi thường cho gia đình nạn nhân, nhưng tỉnh trưởng vẫn nhất quyết phủ
nhận lực lượng của chính phủ đàn áp giết chết người biểu tình, đồng thời cho
rằng Việt Cộng là thủ phạm.[144] Theo Karnow, lực lượng an ninh quân đội Việt
Nam Cộng hòa đã đàn áp cuộc biểu tình của Phật giáo. Ngô Đình Diệm và những
người cùng phe cáo buộc Việt Cộng phải chịu trách nhiệm về những cái chết của
thường dân và tuyên bố những người biểu tình phải chịu trách nhiệm về tình
trạng bạo lực[145][146]
Các tổ chức Phật giáo đã đưa ra một bản Tuyên ngôn
gồm 5 điểm: tự do treo cờ tôn giáo, chấm dứt bắt bớ bừa bãi, bồi thường cho các
nạn nhân Huế, các quan chức chịu trách nhiệm về vụ đàn áp phải bị xử lý và bình
đẳng tôn giáo. Chính quyền cấm các cuộc biểu tình, ra lệnh cho quân đội cảnh
sát bắt giữ những người tham gia vào các cuộc tuần hành biểu tình.
Ngày 3 tháng 6 năm 1963, người biểu tình cố gắng diễu
hành qua chùa Từ Đàm. Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng hơi cay và chó nghiệp
vụ tấn công người biểu tình 6 lần để giải tán đám đông nhưng bất thành, cuối
cùng quân đội sử dụng hóa chất lỏng màu nâu đỏ để tưới vào đám đông người biểu
tình đang cầu nguyện, kết quả là 67 người phải nhập viện vì nhiễm độc. Lệnh
giới nghiêm sau đó đã được chính quyền Diệm ban hành.
Để xoa dịu Phật giáo, ngày 4 tháng 6 năm 1963, Chính
phủ Ngô Đình Diệm thành lập Ủy ban Liên bộ để nghiên cứu giải quyết những
nguyện vọng của Phật giáo, do Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu.[143] Một
phái đoàn hỗn hợp của hai bên được gửi ra Huế để giải tỏa các chùa Từ Đàm, Linh
Quang, Báo Quốc, và Chùa Diệu Đế, đồng thời kêu gọi Phật tử trở về sinh hoạt
bình thường, kiên nhẫn chờ đợi hành động của chính quyền.
Hòa
thượng Thích Quảng Đức tự thiêu để phản đối các chính sách của chính quyền Ngô
Đình Diệm.
Bước ngoặt của cuộc khủng khoảng Phật giáo năm 1963
đến vào tháng 6, khi hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu giữa một ngã tư đông đúc
ở Sài Gòn để phản đối các chính sách của Diệm; bức ảnh chụp lại cảnh tượng này
đã nhanh chóng phổ biến trên khắp thế giới, và đối với nhiều người những hình
ảnh này đã chứng minh cho sự thất bại của chính phủ Việt Nam Cộng hòa.[147] Một
số nhà sư khác đã tự thiêu, noi gương theo hòa thượng Thích Quảng Đức.
Trước tình hình đó, Ủy ban Liên bộ của chính quyền
Việt Nam Cộng hòa và Ủy ban Liên phái của Phật giáo sau khi thảo luận đã ra bản
Thông cáo chung với nội dung cho phép treo cờ Phật giáo nơi công cộng nhưng
phải kèm theo cờ quốc gia, chính phủ hứa sẽ thay thế dụ số 10 bằng một đạo luật
mới do Quốc hội ban hành, lập Ban điều tra để xem xét tất cả các đơn khiếu nại
của Phật giáo, phóng thích những người liên quan đến cuộc đấu tranh của Phật
giáo, những sinh hoạt tôn giáo thuần túy và thường xuyên không diễn ra nơi công
cộng không cần xin phép, tạo điều kiện cho Phật giáo xây chùa, trừng phạt các
cán bộ có trách nhiệm trong sự kiện Phật đản ngày 8 tháng 5 năm 1963 nếu thật
sự họ có lỗi, trợ giúp các nạn nhân trong sự kiện Phật đản.[148]
Sau khi bản Thông cáo chung được công bố, phía Phật
giáo cho rằng các chính quyền địa phương đang ngầm chống lại việc thực thi
Thông cáo chung nên tiếp tục đấu tranh.[149] Cuộc đấu tranh của Phật giáo khiến
chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo mất uy tín
cả trong lẫn ngoài nước.[150] Điều này buộc Tổng thống Ngô Đình Diệm ra thông
điệp kêu gọi hòa giải giữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Phật giáo.[151] Tuy
nhiên Phật giáo không chấp nhận hòa giải mà vẫn tiếp tục đấu tranh.[152]
Chính phủ Hoa Kỳ ngày càng thất vọng với những hình
ảnh công bố các nhà lãnh đạo không được ưa chuộng cả ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngô
Đình Diệm sử dụng lý lẽ chống cộng truyền thống của mình, buộc tội những người
chống đối là cộng sản. Khi các cuộc biểu tình chống chính phủ của Ngô Đình Diệm
vẫn tiếp tục trong suốt mùa hè năm 1963, thì các lực lượng đặc biệt trung thành
với chính phủ đã tiến hành một cuộc đột kích vào chùa Xá Lợi ở Sài Gòn vào
tháng 8 cùng năm. Chùa bị phá hoại, các nhà sư bị đánh đập, hài cốt hỏa táng
của hòa thượng Thích Quảng Đức, bao gồm cả trái tim của ông được những phật tử
coi là một di tích tôn giáo, cũng bị lực lượng an ninh tịch thu.[153]
Các cuộc tấn công đồng thời được thực hiện trên toàn
Việt Nam Cộng hòa, chùa Từ Đàm ở Huế bị cướp phá, tượng phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm
bị phá hủy và di thể một nhà sư đã tạ thế cũng bị đưa đi.[154] Khi dân chúng
đến để bảo vệ các nhà sư đã đụng độ với quân đội và cảnh sát, dẫn đến 30 thường
dân thiệt mạng và 200 người khác bị thương.[154] Tổng cộng đã có 1.400 nhà sư
bị bắt, khoảng 30 nhà sư bị thương trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Hoa Kỳ
đã cho thấy quan điểm không tán thành chính quyền của Diệm khi đại sứ Hoa Kỳ là
Henry Cabot Lodge, Jr. tới thăm một ngôi chùa.[155] Không có thêm các cuộc biểu
tình của Phật tử xảy ra trong thời gian nắm quyền còn lại của Ngô Đình Diệm
(khoảng 5 tháng).[156]
Trong thời gian này, em dâu của Ngô Đình Diệm là Trần
Lệ Xuân, một người từng theo đạo Phật và sau cải đạo sang Công giáo, có thể coi
Trần Lệ Xuân là Đệ Nhất phu nhân de facto (trên thực tế) do Ngô Đình Diệm không
lập gia đình; Trần Lệ Xuân đã đổ thêm dầu vào lửa khi chế giễu các vụ tự thiêu
của các nhà sư, coi họ là “thịt nướng” (barbecues), và tuyên bố “Nếu các phật
tử muốn có thêm thịt nướng, Tôi sẽ vui mừng cung cấp xăng cho họ” (nguyên văn:
If the Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the
gasoline).[157] Các cuộc tấn công vào chùa chiền đã làm dấy lên băn khoăn lo
lắng lan rộng trong công chúng ở Sài Gòn. Sinh viên đại học Sài Gòn đã bãi khóa
và tổ chức các cuộc bạo động, dẫn đến việc bắt giữ, bỏ tù và đóng cửa các
trường đại học; điều này đã lặp lại tại Đại học Huế. Khi học sinh trung học
diễu hành biểu tình, Ngô Đình Diệm cũng đã bắt học sinh; trên 1.000 học sinh từ
các trường trung học ở Sài Gòn, hầu hết là con em các công chức dân sự Sài Gòn,
đã bị gửi tới các trại cải tạo, theo báo cáo bao gồm cả trẻ em lên năm, bị buộc
tội vẽ và viết các câu, hình vẽ chống chính phủ. Bộ trưởng ngoại giao của Diệm
là Vũ Văn Mẫu đã từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối.[158] Khi
ông cố gắng rời Việt Nam Cộng hòa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật
Ấn Độ, thì bị bắt và bị quản thúc.
Ngày 20 tháng 8 năm 1963, Ngô Đình Nhu chỉ đạo lực
lượng an ninh của đại tá Lê Quang Tung phát động chiến dịch Nước Lũ ào ạt tấn
công chùa Xá Lợi, Giác Minh, Ấn Quang, Từ Quang, Therevada ở Sài Gòn và chùa
chiền khắp toàn quốc. Họ mặc đồng phục của quân đội trong khi đột kích để cho
mọi người thấy rằng Quân đội chính phủ đứng sau lưng họ trong cuộc đàn áp này.
Lực lượng của Ngô Đình Nhu đã bắt hơn 400 nhà sư đang ngồi trước tượng Đức
Phật. Hàng ngàn phật tử khác cũng bị bắt giữ trên cả nước (riêng tại Sài Gòn là
1.400 người) với lý do “Phật giáo là tay sai của Việt cộng”. Hệ quả tức thời
của chiến dịch Nước Lũ là toàn bộ thành phần lãnh đạo Phật giáo bị bắt giữ,
phong trào đấu tranh của Phật giáo gần như bị tê liệt.
Trong ba tháng sau chiến dịch Nước Lũ, nhiều vị lãnh
đạo trên thế giới, kể cả Giáo hoàng Phaolô VI và các tổ chức Công giáo, đã lên
án Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Thục đến Vatican nhưng không được Giáo hoàng tiếp,
Trần Lệ Xuân dẫn phái đoàn Quốc hội đi nước ngoài bị biểu tình phản đối. Cuối
tháng 9/1963, Tổ chức Liên Hợp Quốc quyết định gửi phái đoàn đến Việt
Khủng
hoảng chính trị và quân sự
Từ năm 1960 khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam
Việt Nam với sự hậu thuẫn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời tiến hành đấu
tranh vũ trang đã làm cho tình hình an ninh ở miền Nam bị xáo trộn. Lực lượng
Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã kiểm soát được phần lớn vùng
nông thôn, các kế hoạch quốc sách như Ấp Chiến lược và Khu Trù mật của Ngô Đình
Diệm đều thất bại. Riêng trong năm 1963, quân Giải phóng và người dân miền Nam
đã phá hoàn toàn 2.895 Ấp chiến lược trong số 6.164 ấp được lập, số còn lại đã
bị phá đi phá lại 5.950 lần ấp. Quân Giải phóng giành quyền làm chủ ở 12.000
thôn trong tổng số 17.000 thôn toàn miền Nam, gồm hơn 5 triệu dân trong tổng số
14 triệu dân toàn miền Nam. Hơn 1,5 triệu ha trên tổng số 3,5 triệu ha ruộng
đất đã về tay nông dân; hơn 23.000 thanh niên miền
Việc tập trung quyền lực vào gia đình, đảo ngược các
chính sách cải cách ruộng đất của Việt Minh trước đây (xem Cải cách điền
địa)[160] cũng như chính sách cai trị đất nước bị coi là thiên vị với thiểu số
người Công giáo tạo ra những mầm mống xung đột giữa Công giáo và Phật giáo cũng
như sự bất mãn trong đội ngũ tướng lĩnh quan chức, sự chống đối của đông đảo
người theo đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, trí thức và nông dân. Hơn nữa Ngô
Đình Diệm còn bị các chính trị gia đối lập chỉ trích là độc tài, gia đình trị,
bất lực trong việc ổn định xã hội và chống Cộng thiếu hiệu quả (xem Nhóm
Caravelle).
Anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu nảy sinh bất đồng
từ đầu năm 1963. Quân đội Việt Nam cộng hòa bị thua nặng tại trận Ấp Bắc, dù
khi đó tại Nam Việt Nam đã có 12.000 cố vấn quân sự Mỹ, đã khiến giới quân sự
Mỹ liên tục chỉ trích khả năng quân sự của các tướng Việt Nam Cộng Hòa và đòi
để các tướng Mỹ nắm quyền chỉ huy. Ngô Đình Nhu tỏ ra bất mãn về việc chính phủ
Việt Nam Cộng hòa phải nghe theo những khuyến cáo quân sự của người Mỹ nên
quyết định tìm hướng đi mới, tỏ ý định yêu cầu Mỹ rút bớt cố vấn quân sự về
nước và tìm cách tiếp xúc với những người cộng sản ở Hà Nội. Người ta đánh giá
rằng việc này là quyết định riêng của Ngô Đình Nhu, còn Ngô Đình Diệm không có
được sự uyển chuyển về chính trị như vậy.[132]
Do những ý định mới của Ngô Đình Nhu, người Mỹ bắt
đầu tìm cách thay thế Ngô Đình Diệm, họ cắt một nửa viện trợ cho chính quyền
Sài Gòn.[161] Tháng 7 năm 1963, đại sứ Mỹ Frederick Nolting, người bị xem là
quá bao che cho chính quyền họ Ngô, bị thay thế. Cùng lúc đó nổ ra biến cố Phật
giáo, 1963 làm chính quyền Sài Gòn càng lung lay. Theo tướng Pháp Paul Ély thì
vào giữa năm 1963, quyền lực của Ngô Đình Diệm chỉ còn giới hạn trong phạm vi
Sài Gòn.[162]
Cùng với việc chống Cộng không đạt được kết quả và
không xoa dịu được cuộc đấu tranh của Phật giáo được xem là nguyên nhân dẫn tới
sự mất uy tín trầm trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm trước các lực lượng
chính trị hợp pháp khác tại miền Nam và trước chính quyền Hoa Kỳ. Sự kiện Phật
Đản, 1963 xảy ra là giọt nước tràn ly dẫn tới hành động đảo chính của một nhóm
tướng lĩnh vốn bất mãn với cách điều hành đất nước của Tổng thống Ngô Đình
Diệm. Chính phủ Mỹ đề nghị Ngô Đình Diệm bớt đàn áp tàn bạo đối với Phật giáo
và sinh viên để lấy lại hình ảnh dân chủ hơn của chính quyền, nhưng Ngô Đình
Diệm không nghe theo. Đứng trước tình thế đó, chính phủ Kennedy buộc phải gây
sức ép đối với chính quyền của Ngô Đình Diệm.[163]
Căng thẳng với người Mỹ ngày càng tăng, nhưng Ngô
Đình Diệm không nghe theo những cảnh báo của Mỹ vì ông vẫn tự tin cho rằng
người Mỹ không thể tìm ra người thay thế tốt hơn mình ở vị trí Tổng thống Việt
Nam Cộng hòa. Vì thế chính phủ Mỹ cuối cùng quyết định bỏ rơi ông.[163][164]
Bị
đảo chính lần thứ hai
Theo Thomas Ahern Jr., bắt đầu từ tháng 10 năm 1960
CIA bắt đầu nhận thấy mầm mống nổi loạn chống Ngô Đình Diệm ở Sài Gòn ngày càng
tăng, CIA tập hợp thông tin về thành phần bất mãn trong quân đội đồng thời cố
gắng khai thác tướng Trần Văn Minh và các nguồn khác nhằm liên lạc với thành
phần tham gia đảo chính. Nhân viên CIA Miller được lệnh của Trạm CIA tránh can
dự “cố vấn” cho phe đảo chính mà chỉ việc lặng lẽ theo dõi diễn biến rồi báo
cáo về Trạm.[165]
Điệp viên CIA Lucien Emile Conein, là đầu mối liên
lạc giữa Đại sứ quán Hoa Kỳ với các tướng lĩnh đảo chính.[166]
Bùi Diễm (sau năm 1963 là Đại sứ Việt Nam Cộng hòa
tại Hoa Kỳ) đã viết trong hồi ký của mình rằng: tướng Lê Văn Kim đã yêu cầu hỗ
trợ nhằm thực hiện điều mà chính phủ Hoa Kỳ cũng muốn làm với chính quyền của
Ngô Đình Diệm (tức gạt bỏ chính quyền của Ngô Đình Diệm).[167] Bùi Diễm đã liên
lạc với cả đại sứ và các nhà báo thạo tin của Hoa Kỳ ở miền Nam Việt Nam, như
David Halberstam (New York Times), Neil Sheehan (United Press International) và
Malcolm Browne (Associated Press).[168]
Theo lời Bùi Kiến Thành, một người thân cận với Tổng
thống Ngô Đình Diệm thì “Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đình
chiến, và Đại sứ Pháp… qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới
hai bên đã có những cuộc chia sẻ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đã liên lạc
được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế thì họ nói chính phủ Ngô Đình Diệm phản
thùng và họ đưa việc này ra cho mấy ông tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa bảo là ông
Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu “bán nước cho cộng sản”, vì vậy các anh phải lật đổ
Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm đi để “cứu nước” không thì họ theo cộng sản, “bán
đứng” các anh cho cộng sản...Những đầu óc suy yếu của những anh tướng hữu dũng
vô mưu không biết gì cả, nghe như thế lại tưởng rằng mình là người ái quốc ái
quần, lật đổ Ngô Đình Diệm để “cứu đất nước khỏi họa cộng sản”[130] “.
Henry Cabot Lodge, Jr. đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam
Cộng hòa sau khi biết về âm mưu đảo chính được lên kế hoạch bởi các tướng lĩnh
của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đã báo cáo cho
Tổng thống Mỹ John F. Kennedy xin ý kiến. Biên bản cuộc họp ngày 29 tháng 10
năm 1963 giữa Kennedy và các cố vấn cho thấy Kennedy sau khi họp với 15 cố vấn
ngoại giao cao cấp và chuyên gia an ninh quốc gia không đưa ra được ý kiến
thống nhất về vấn đề này mà để cho đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. tùy cơ ứng
biến.[169][170] Tại Washington, ngoại trưởng Dean Rusk truyền đạt quyết định
đến Đại sứ Lodge ở Sài Gòn. Lodge báo tin cho nhân viên CIA Lucien Conein.[171]
Lucien Conein, đặc vụ của CIA, trở thành đầu mối liên
lạc giữa Đại sứ quán Hoa Kỳ với các tướng lĩnh đảo chính, do Trần Văn Đôn đứng
đầu.[172] Ngày 3 tháng 10 năm 1963, Conein gặp tướng Minh là người nói cho ông
biết ý định đảo chính và yêu cầu người Mỹ hỗ trợ nếu nó thành công.[173] Trong
phim tài liệu Việt Nam: Cuộc chiến 10.000 ngày của đạo diễn Michael Maclear,
nhân viên CIA Lucien Conein kể lại rằng khi được thông báo về ý định đảo chính
ông ta nói: “Lệnh mà tôi nhận là thế này: Tôi phải cho Tướng Minh biết rằng
chính phủ Hoa Kỳ sẽ không cản trở cuộc đảo chính của họ, và tôi đã truyền đạt
điều này.”.[171] Sau đó Conein bí mật gặp tướng Trần Văn Đôn để nói với ông này
rằng Hoa Kỳ phản đối bất cứ hành động ám sát nào.[174] Tướng Trần Văn Đôn trả
lời “Được rồi, nếu anh không thích điều đó chúng ta sẽ không nói về nó nữa.”.[174]
Theo một nguồn khác, Conein cung cấp cho nhóm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa một
số tiền mặt lên tới 40.000 USD để hỗ trợ cho việc thực hiện đảo chính với lời
hứa rằng Hoa Kỳ sẽ không làm bất cứ điều gì để bảo vệ Ngô Đình Diệm.[175]
Ngày 30 tháng 10 năm 1963, phụ tá Ngoại trưởng Mỹ
Roger Hilsman gửi đến Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn một bức mật thư mà ông này gọi đó
là “Hoàng hôn của các thần linh”. Trong bức mật thư này có đoạn:
“Chúng ta cần khuyến khích nhóm đảo chính chiến đấu
đến cùng và phá tan Dinh Độc Lập (nếu cần) để đạt được thắng lợi. Điều kiện cho
gia đình họ Ngô là đầu hàng vô điều kiện, vì nếu không họ sẽ tìm cách gạt bỏ
được lực lượng đảo chính lẫn sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Nếu gia đình họ Ngô bị
bắt sống, vợ chồng ông Nhu phải nhanh chóng bị tống xuất sang Pháp hay bất cứ
nước nào muốn nhận họ. Riêng ông Diệm, tùy thuộc vào ý muốn của các tướng lĩnh
tham gia đảo chính”.[176]
Tướng Dương Văn Minh và các đồng mưu lên kế hoạch lật
đổ chính phủ của Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 bằng một cuộc đảo
chính nhanh gọn chóng vánh. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, lực lượng đảo chính đưa
quân đội tới chiếm đóng tất cả các vị trí trọng yếu ở Sài Gòn, chặn mọi cửa ngõ
ra vào nội đô. Tại dinh tổng thống, chỉ có một lực lượng nhỏ trung thành bảo vệ
cho Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, các tướng lĩnh đảo chính kêu gọi Ngô Đình
Diệm đầu hàng và Ngô Đình Diệm sẽ được ra nước ngoài sống lưu vong nếu đầu
hàng. Tuy nhiên tối hôm đó, Ngô Đình Diệm và đoàn tùy tùng đã trốn thoát khỏi
dinh tổng thống bằng một đường hầm tới Chợ Lớn, về lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam
- Chợ Lớn. Sáng sớm ngày 2 tháng 11, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị lực lượng
đảo chính bắt, cuộc đảo chính tới đây là kết thúc, phe đảo chính chỉ còn việc
thành lập chính phủ mới. Hành động đảo chính đã đưa Việt Nam Cộng hòa đến tình
trạng khủng hoảng lãnh đạo trong một thời gian cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu trở
thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
Ám sát và mai táng
Sau khi bị lật đổ bởi các tướng lĩnh dưới quyền ngày
1 tháng 11 năm 1963, Ngô Đình Diệm cùng em trai — cố vấn Ngô Đình Nhu — lánh
nạn tại nhà thờ Cha Tam. Lúc 7 giờ sáng ngày 2/11/1963, Ngô Đình Diệm gọi điện
thoại cho Đại sứ Mỹ là Cabot Lodge để cầu cứu trước, nhưng Lodge đã “bỏ máy
xuống và đi tìm cái gì đó”. Khi trợ lý của Lodge là Mike Dunn đề nghị Lodge cho
người đến đó để giải cứu, Lodge ngăn lại: “Chúng ta không thể dính líu như vậy
được”.
Thi hài Ngô Đình Diệm ở phía sau của chiếc xe thiết
giáp M113
Sáng hôm đó, Ngô Đình Diệm cùng với Ngô Đình Nhu gọi
điện và ra hàng lực lượng đảo chính. Hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị
đại úy Nguyễn Văn Nhung giết bằng lưỡi lê và súng lục trong chiếc xe bọc thép
M-113, theo lệnh của tướng Dương Văn Minh, khi chiếc xe đang trên đường tới Bộ
Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa.[177][178] Theo chứng nhận của bác sĩ
Huỳnh Văn Hưỡn, là người đã tiến hành vụ khám nghiệm thì anh em Ngô Đình Diệm -
Ngô Đình Nhu bị bắn từ sau gáy ra phía trước. Thi thể Ngô Đình Diệm có nhiều
vết bầm, chứng tỏ đã bị hành hung trước khi bị bắn. Còn thi thể Ngô Đình Nhu
thì bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu.
Sau khi đảo chính xảy ra ở Sài Gòn, anh trai Ngô Đình
Diệm là Ngô Đình Cẩn xin tỵ nạn ở tòa lãnh sự Mỹ ở Huế. Sau đó, Mỹ đưa Cẩn vào
Sài Gòn. Nhưng khi tới Sài Gòn thì Ngô Đình Cẩn được giao lại cho Lou Conein và
sau đó được giao cho những người lãnh đạo đảo chính theo lệnh của Đại sứ Lodge.
Mấy tháng sau, Cẩn bị xử tử tại Sài Gòn (ngày 9/5/1964). Như vậy, cả ba anh em
Ngô Đình Diệm đều bị giết, đại sứ Mỹ Cabot Lodge đã làm ngơ hoặc gián tiếp giao
họ cho quân đảo chính giết chết.
Sau khi biết tin Ngô Đình Diệm bị lật đổ và ám sát,
phát biểu của Hồ Chí Minh được thuật lại như sau “Tôi không thể nào tin người
Mỹ lại ngu ngốc đến vậy”[179] Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam nói rõ hơn:
“Hậu quả của cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 sẽ trái
với những tính toán của đế quốc Mỹ... Diệm là một trong số những nhân vật mạnh
nhất chống lại nhân dân và Chủ nghĩa cộng sản. Tất cả những gì có thể làm nhằm
cố gắng đè bẹp cách mạng đã được Diệm thực hiện. Diệm là một trong những tay
sai có tài nhất của đế quốc Mỹ... Trong số những người chống cộng ở miền Nam
Việt
Khi biết Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị đảo chính và
giết chết, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị choáng váng và ưu tư thoáng
buồn.[180] 4 giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi được thông báo anh em Ngô
Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã bị giết, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, đã vui vẻ thốt
lên bằng tiếng Pháp: “C’est formidable! C’est formidable!” (Thật là tuyệt diệu.
Thật là tuyệt diệu).[181]
Các cơ quan do Ngô Đình Diệm lập ra như Đảng Cần Lao,
Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội, Lực lượng Đặc biệt, 4 cơ quan Mật vụ Công an,
Phong trào Cách mạng Quốc gia, Thanh Niên Cộng hòa, Phụ nữ Liên đới, các xóm
Đạo võ trang,… tất cả đều tê liệt rồi tan rã không một phản ứng. Cả cấu trúc
chính trị mà họ Ngô xây dựng trong 9 năm đã sụp đổ chỉ trong 24 tiếng đồng hồ,
tất cả đều bỏ mặc gia đình họ Ngô bị giết.
Nhà sử học Nguyễn Hiến Lê, khi đó đang sống ở Sài
Gòn, đã ghi lại không khí vui mừng của người dân ở thời điểm đó[182]:
Từ 7 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi đài phát
thanh Sài Gòn báo tin dinh Gia Long bị quân đội chiếm thì già trẻ lớn bé lũ
lượt kéo nhau đi xem. Lời hò reo, tiếng cười vang với sắc diện tươi vui của mọi
người chứng tỏ sự giải thoát gông cùm kềm kẹp của độc tài đã bóp nghẹt lòng dân
trong chín năm trời đăng đẳng” - Bác sĩ Dương Tấn Tươi. Còn thi sĩ Đông Hồ thì:
“Nỗi ức hiếp, nỗi căm hờn bị đè nén, bị vùi dập một cách tàn nhẫn bất công
trong 9 năm trời, một sớm được giải thoát, được cởi mở, mà phản ứng chỉ có
chứng ấy thì cho thấy quần chúng Việt Nam năm 1963 này cũng đã tỏ ra hiền lành
nhiều lắm, và cũng đã biết tự kiềm hãm sức giận dữ hung hãn của mình rồi đó.”
Nhà báo đương thời tại miền Nam, ông Vũ Bằng ghi lại
không khí của người dân miền Nam lúc đó khi nghe tin vụ đảo chính và việc anh
em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu bị giết:[183]
“ Lúc ấy,
tôi đang làm cho tờ “Dân Chúng”. Tôi còn nhớ bầu không khí nẩy lửa đó, ai cũng
hăng say muốn thấy Ngô Đình Diệm và bộ sậu, bị chết đâm chết chém… có một điều
chắc chắn là tình thế lúc đó đã chín mùi và dân chúng đã thấy cách gì cũng phải
hạ ngay Ngô Đình Diệm.
Người ta muốn biết ai đã giết Diệm - Nhu, nhưng không
ai biết đích xác; dù sao Diệm - Nhu chết đi thì đại đa số dân chúng cũng mừng.
Có người mổ heo cúng tế; có người lập bàn thờ cảm tạ trời đất; còn thì hầu hết
nhà nào cũng làm tiệc, rủ bè bạn, thân thích đến để nhậu nhẹt cho “phỉ chí tang
bồng”.
Cái chết của anh em Ngô Đình Diệm cũng khiến cho các
lãnh đạo Á Châu là đồng minh của Mỹ phải cảm thấy lo ngại cho mình. Về sau,
Tổng thống (
“ Cuộc thảm
sát gia đình Ngô Đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được
một bài học khá chua chát: Làm đồng minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên
đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa là nên làm kẻ thù của Hoa Kỳ. “
— Tổng thống Ayub Khan[184]
Tài liệu của phía Hoa Kỳ cho biết Ngô Đình Diệm và
Ngô Đình Nhu được chôn trong những ngôi mộ không tên trong một nghĩa trang bên
cạnh ngôi nhà của đại sứ Hoa Kỳ.[185] Sau này tìm hiểu, thì ông Ngô Đình Diệm
và ông Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi (vị trí ở đường Điện
Biên Phủ cắt với đường Hai Bà Trưng, ngày nay là Công viên Lê Văn Tám). Áo quan
của Ngô Đình Diệm hình hộp, áo quan của Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân
chứng thời kỳ này giải thích vì người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên
chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Ngô Đình Diệm, còn chiếc hạng vừa
dành cho ông Ngô Đình Nhu. Trong khoảng thập niên 1980, do nhu cầu phát triển
đô thị trong nội đô Sài Gòn, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa
trang Lái Thiêu (Nghĩa trang Nhân dân số 6B) ngày nay. Hiện tại, mộ ông Ngô
Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu chính thức đặt tại nghĩa trang Lái Thiêu.[186] Mộ
hai ông nằm hai bên mộ mẹ - bà Phạm Thị Thân. Ngoài ra, mộ ông Ngô Đình Cẩn
cũng được dời về gần đó. Mộ hai ông ban đầu không có tên mà chỉ ghi tên thánh
và “Huynh” (chỉ ông Ngô Đình Diệm) hoặc “Đệ” (ông Ngô Đình Nhu), sau đó, theo
đề nghị của một số người, mộ đã được đề đích danh.[187]
Đánh giá
Tại
Việt
Năm 1935, nhân việc Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách
chức rồi lại phục chức, Phan Khôi nhận xét như sau: “Thật, chúng tôi nói 50 năm
nay mới có một người như ông Ngô Đình Diệm, không phải là nói quá.[188]
Ngay sau khi Ngô Đình Diệm nhậm chức Thủ tướng chính
quyền Bảo Đại, báo Nhân dân của Đảng Lao động đã có bài chỉ trích “Dưới thời
thực dân Pháp trước đây, do tài luồn lọt bợ đỡ, Diệm từ chỗ một tên công chức
nhỏ đã được cất nhắc dần dần lên tới tuần phủ. Thấy quan thầy chú ý Diệm càng
trổ tài khuyến mã ra sức đàn áp cách mạng, áp bức nông dân, nên đến năm 1933 nó
được quan thầy đặc cách phong chức thượng thư bộ lại trong cái thứ triều đình
mọt nát của Bảo Đại. Hồi phát xít Nhật xâm lược Đông Dương, địa vị thực dân
Pháp lung lay, Diệm giở mặt thay thầy đổi chủ. Nó cử tên Vũ Đình Dy sang Đông
Kinh thay mặt nó lạy van phát xít Nhật và xin cho nó cái chân thủ tướng bù
nhìn. Nó lại cho tên tay sai Phan Thúc Ngô sang Nhật lần nữa mang cái “Lời thề
trung thành” của nó tâu hỏi với phát xít Nhật và tên bù nhìn Cường Để, đồng
thời định rước Cường Để về làm vua bù nhìn,...Ngô Đình Diệm chính là một con
chó săn lai Nhật, lai Tây, lai Mỹ chuyên thay thầy đổi chủ,...”[189]
Sách giáo khoa lịch sử lớp nhất của Đệ Nhị Việt Nam
Cộng hòa (“Đệ Nhị Cộng hòa” là chính phủ do các tướng lĩnh đảo chính Ngô Đình
Diệm lập nên, để phân biệt với “Đệ Nhất cộng hòa” là chính phủ thời Ngô Đình
Diệm) xuất bản năm 1966 viết về thời kỳ Ngô Đình Diệm:[190]
“ Ngô Đình
Diệm nắm quyền ở miền
“ Một chánh
thể độc tài hại dân hại nước không thể tồn tại được. “
Nhà sử học và là một tín đồ Công giáo, ông Nguyễn
Đình Đầu cho rằng Ngô Đình Diệm là người yêu nước và có công. Ông nói: “Vào năm
1955, tôi ở Pháp về tôi thấy ông Ngô Đình Diệm có những hoạt động rất tích cực
trong việc xây dựng lại xã hội đang sa sút lúc bấy giờ trên nhiều phương diện.
Về kinh tế, lúc đó đang nhập khẩu gạo mà chỉ trong vài năm đã phát triển nông
nghiệp và xuất khẩu 300.000 tấn gạo ra nước ngoài. Về văn hóa tiến bộ khá rõ
ràng, đã xây dựng được hệ thống giáo dục đào tạo tiến bộ theo chương trình của
người Pháp và phương pháp của Hoa Kỳ, trong một thời gian ngắn đã đào tạo được
nhiều chuyên gia trí thức...[191]
Theo hồi ức của tướng Trần Văn Đôn thì: “Ông Diệm là
người tuy điềm đạm bên ngoài nhưng tính rất nóng. Một hôm tôi vào Dinh Độc Lập,
thấy thức ăn, cơm canh văng tung tóe dưới sảnh, người bồi đang lau dọn. Sau khi
trò chuyện với ông Diệm xong, tôi quay ra hỏi tùy viên có chuyện gì xảy ra, thì
được biết ông Diệm hất đổ mâm cơm vì thiếu một món mà ông thích”[192].
Ngô Đình Diệm hiểu rõ bản thân ông cần quân đội,
nhưng ông luôn tỏ ý coi thường quân đội, trong khi rất thích những bộ trưởng
dân sự biết cách nịnh hót. Ngoài ra, ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo
vùng miền. Ông chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đình Diệm thường nói: “Chỉ
có dân miền Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn
bán, còn dân miền
Giáo sư Nguyễn Văn Tương, nguyên Tổng Thư ký Quốc
hội, có nhận xét về việc Ngô Đình Diệm đã khống chế quốc hội như một nhà độc
tài:[193]
Ra phiên họp khoáng đại, Dân biểu ta chia làm hai
khối: khối đa số và khối thiểu số, giống chế độ lưỡng đảng của Anh quốc. Nhưng
đó chỉ là trò ảo thuật của cấp lãnh đạo, vì ở cấp cao còn có vai trò của Đảng
Cần lao Nhân vị hoạt động trong vòng bí mật. Người ngoài cuộc nói Quốc hội lúc
ấy là một cửa sổ giả, nghĩa là khi xây nhà thì phải có cửa cái, cửa sổ cho đủ
bộ dễ coi, mặc dù cửa sổ giả vốn không cần thiết. Thay vì chú tâm trang bị cho
nước nhà những bộ luật mới thống nhất và tiến bộ, Quốc hội chuyên ra các Quyết
nghị ủng hộ Ngô Tổng thống…”
Ngô Đình Diệm quá đề cao bản thân lẫn người cùng
huyết thống, có cách cư xử không khéo đối với thuộc cấp. Đa phần tướng tá, sĩ
quan đều bị ông Diệm gọi bằng “thằng” (ngoại trừ Tổng tham mưu Trưởng Lê Văn
Tỵ, ông Diệm gọi là ngài, còn tướng Nguyễn Văn Đôn thì gọi khách khí bằng ông).
Theo nhiều hồi ký của tướng lĩnh dưới thời ông Diệm kể lại, thì khi vào cửa Tam
quan ở các đền thờ vua chúa, ông Diệm thường nói: “Các ông đi cổng hai bên, vì
cổng giữa chỉ có vua mới được đi. Chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc này”. Dứt
câu, ông Diệm đi vào bằng cổng giữa. Ngay cả người gần gũi với gia đình ông như
tướng Trần Văn Đôn còn bất mãn với sự độc đoán này của ông Diệm. Nhiều sử gia
gọi Việt
Theo ông Quách Tòng Đức, vốn là một viên chức cao cấp
của chế độ thực dân từ trước năm 1945 và sau này đã phục vụ các chính phủ ở Sài
Gòn cho rằng: Ngô Đình Diệm có bản chất quyết liệt đến tàn bạo, rất kiên trì
trong những kế hoạch thâu tóm quyền lực và không ngần ngại sử dụng những mưu kế
để đạt các mục đích đã đặt ra. Ngô Đình Diệm không hay to tiếng nhưng ông ta
cũng có những lúc lớn giọng quát nạt làm đám thuộc hạ phải sợ hãi. Nhiều người
từng tiếp xúc với Tổng thống Diệm ở Sài Gòn đều có cảm nhận rằng, mặc dù mang
danh là đứng đầu một chính thể “cộng hòa” nhưng thực chất Ngô Đình Diệm vẫn cư
xử như một viên quan lớn của chế độ phong kiến. Cũng dưới góc nhìn như thế nên
tác giả Stanley Karnow trong cuốn “Vietnam A History” đã dành hẳn một chương
(chương 8) nói về Ngô Đình Diệm với tựa đề “
Thiếu tướng Đỗ Mậu, người từng nhiều năm phục vụ Ngô
Đình Diệm khi còn thất thế lẫn khi đã trở thành Tổng thống ở Sài Gòn có vài
đánh giá, nhận xét:
“Tất cả mọi quyết định, vi phạm mọi nguyên tắc hành
chính cơ bản, để can thiệp trực tiếp và mạnh mẽ những sinh hoạt nào mà ông ta
muốn, cấp độ nào mà ông ta thích… Chủ trương trung ương tập quyền tuyệt đối đó,
một lần nữa phản ánh cái tâm lý độc quyền và độc tôn là một trong những nét đặc
thù của con người ông Diệm từ những ngày đầu mới làm quan Nam triều…”[194]
Ông Bùi Kiến Thành, một cộng sự thân cận với Tổng
thống Ngô Đình Diệm nhận định về sự thất bại của ông Diệm:
“... thực sự ra chính quyền Ngô Đình Diệm sụp đổ còn
nhiều vấn đề cốt lõi hơn nữa. Ông Ngô Đình Diệm là một người yêu nước và có
công tâm nhưng ông Diệm không có kinh nghiệm tổ chức. Còn ông Nhu thì rất uyên
thâm về vấn đề học thuật, ông học rất giỏi về tổ chức thư viện, ông nghiên cứu
rất tốt nhưng không có tài năng tổ chức lực lượng chính trị. Nếu quản lý một
nhà nước mà không có tài tổ chức thì làm sao? Vì vậy cho nên cái Đảng Cần lao
của ông Nhu không có tổ chức tốt còn cái “Phong trào cách mạng quốc gia” mà ông
Bác sĩ Tín làm chủ tịch sáng lập thì nó cũng chỉ là phong trào thôi. Sau một
phong trào rồi thì nó lặng im. Quyền chính trị trong nước là ở trong đảng, mà
Đảng Cần Lao không được tổ chức tốt vì vậy cho nên chế độ Ngô Đình Diệm không
tồn tại được vì không có tổ chức chính trị nòng cốt để làm việc.
Sau nữa còn có cái lỗi ở chỗ lầm lẫn hai việc khác
nhau: quản lý các vấn đề nhà nước là việc quản lý hành chính, còn tổ chức nòng
cốt do một chính đảng đứng lên để đóng vai trò cột trụ cho một đất nước thì là
một việc khác. Do lầm lẫn ở vai trò lãnh đạo chính trị và lãnh đạo hành chính
cho nên chế độ Ngô Đình Diệm tập trung nhiều hơn về vấn đề hành chính mà quên
đi vấn đề lãnh đạo chính trị, xây dựng nòng cốt tức là sự ủng hộ của nhân dân,
làm sao để vấn đề đảng được nhân dân ủng hộ...
Chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được, không xây
dựng được một đảng chính trị thật sự của dân, do dân và vì dân vì vậy cho nên
không đứng vững được và vì thế có thể nói sự sụp đổ của chế độ Ngô Đình Diệm
không phải là vấn đề nhỏ bé như chuyện bà Nhu nói cái này cái kia. Có! Nó có
ảnh hưởng nhưng chuyện đó là chuyện nhỏ, đối với khả năng xây dựng nên một
chính đảng mạnh thì chính phủ Ngô Đình Diệm không làm được.[130] “
Ông Lý Chánh Trung, Đổng lý văn phòng Bộ Quốc gia
Giáo dục, đã nhận xét vào năm 1970 rằng:
Nhìn lại 9 năm cầm quyền, tôi thành thực nghĩ rằng,
ông Diệm chỉ là một huyền thoại lớn do người Mỹ và một số tay chân bộ hạ tạo ra
để lợi dụng. Người Mỹ lợi dụng ông để thực hiện mưu đồ của họ, một số tay chân
bộ hạ đã lợi dụng ông để bòn rút những nguồn lợi béo bở của đất nước này và của
viện trợ Mỹ...
Cái lỗi căn bản của ông là đã xem người Mỹ cũng như
tay chân bộ hạ của ông là những phương tiện để hoàn thành sứ mạng, trong khi
chính ông mới là phương tiện của người Mỹ và một số tay chân bộ hạ.
Ông đã tưởng mình có thể lệ thuộc Mỹ một phần nào
thôi, còn phần kia thì vẫn “độc lập”, ông đã tưởng có thể chấp nhận làm con cờ
trong một ván cờ rồi ngay trong ván cờ đó, có thể tự động đi một nước cờ riêng
của ông. Khi ông nhìn thấy đó chỉ là ảo tưởng thì đã quá trễ: Ông đã chết vì ảo
tưởng đó. Và cái chết bi thảm của ông cho thấy một sự thật hết sức tầm thường:
Không một con cờ nào có thể tự đi một nước cờ cho riêng nó, dù con cờ đó mang
tên Ngô Đình Diệm, và không một nước nhỏ nào có thể lợi dụng một nước lớn, nhất
là nước đó mang tên Hoa Kỳ.
Bảy năm đã qua và ngày nay, dư luận quần chúng có vẻ
khoan hồng hơn đối với ông Diệm, ngay cả những nơi nạn nhân của chế độ ấy. Lý
do giản dị: với thời gian, kỷ niệm đã mờ nhạt, hận thù được xoa dịu, những ẩn
ức dồn nén được giải tỏa. Trong khi đó, cái thực trạng của xã hội miền
Từ
bên ngoài
Ngô Đình Diệm từng sống ở Hoa Kỳ một thời gian, có
quan hệ với một số nhân vật trong chính giới Mỹ, được Hoa Kỳ ủng hộ về Việt Nam
làm Thủ tướng trong chính phủ Bảo Đại (sau Hiệp định Genève) rồi Tổng thống Đệ
Nhất Cộng hòa Việt
“Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y
Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính
trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở
thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn
thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi người lãnh đạo: Công giáo nồng
nhiệt và chống Cộng điên cuồng.”
Nhà hoạt động dân quyền nổi tiếng người Mỹ gốc Phi
Martin Luther King, trong bài phát biểu phản đối Chiến tranh Việt
Sau khi quân Pháp bị đánh bại, có vẻ như nền độc lập
và cải cách ruộng đất sẽ được thực hiện thông qua Hiệp định Genève. Nhưng thay
vào đó, Hoa Kỳ đã đến, quyết định rằng Hồ Chí Minh không được quyền thống nhất
đất nước tạm thời bị chia cắt. Chúng ta ủng hộ một trong những nhà độc tài xấu
xa nhất, người do chúng ta chọn lựa, Tổng thống Diệm. Nông dân miền Nam Việt
Nam chứng kiến và run rẩy khi ông Diệm thẳng tay triệt hạ mọi phe đối lập,
ủng hộ các địa chủ bóc lột họ, và thậm chí từ chối thảo luận về việc thống nhất
với miền Bắc. Những người nông dân đã theo dõi tất cả những điều này, vốn là
kết quả do sự chủ trì của Hoa Kỳ, và sau đó là số lượng quân nhân Hoa Kỳ ngày
càng tăng kéo đến Việt Nam để giúp dập tắt các cuộc nổi dậy mà các phương pháp
của Diệm đã khơi dậy.
(Mặt trận dân tộc Giải phóng miền
Một số người cho rằng Ngô Đình Diệm là người theo chủ
nghĩa dân tộc. Song tác giả Dennis Bloodworth (1970) nhận xét rằng:[197]
“Cho tới năm 1963 mật vụ của Diệm đã bắt giữ hoặc đẩy
vào tay những kẻ thù hầu như mọi người quốc gia có tên tuổi đã chiến đấu cho tự
do của đất nước trong 20 năm trước. Ông ta và gia đình mình đã đàn áp mọi đối lập,
chất đầy nhà tù, bịt miệng báo chí, gian lận bầu cử, và bám vào quyền lực.”
Có ý kiến cho rằng Ngô Đình Diệm đã bỏ lỡ cơ hội
thống nhất đất nước khi từ chối hiệp thương, không tiến hành tổng tuyển cử và
giết hại rất nhiều người thân cộng.[198] Tuy nhiên theo Richard J. Barnet nhận
xét [199][cần số trang]:
Điều quan tâm chính của chính quyền Diệm là sự an
toàn của chính quyền. Chính quyền Diệm sợ rằng cuộc bầu cử dự định tổ chức vào
tháng 7 năm 1956 đưa đến sự thắng lợi của Hồ Chí Minh và chấm dứt quyền lực của
những chính trị gia không Cộng sản
Đại sứ Mỹ J. Lowton Collins nhận xét về ông Diệm: “Ông
ấy quá quan tâm đến những vấn đề nhỏ nhặt, không có bất cứ sáng kiến đáng kể
nào từ ngày nắm chính quyền. Những người có khả năng trong chính phủ đều khó
chịu về thói quen quyết định trên đầu người khác của ông Diệm. Ông Diệm hoàn
toàn không trông cậy vào họ, mà đặt hết niềm tin vào hai người em cùng những
người chịu phục tùng ông ấy. Ông là người hoàn toàn không biết nhân nhượng và
với thái độ của một người khổ hạnh, ông không thể đương đầu với những thế lực
thực tại, điển hình nhất là Bình Xuyên…”[5] Người Mỹ không xem ông Diệm là một
kẻ bù nhìn. Họ đánh giá ông Diệm là một con người “luôn muốn có được tất cả,
hoặc không có gì”, “được ăn cả ngã về không” và “ông Ngô Đình Diệm là một con
rối. Nhưng con rối ấy tự giật dây mình và giật dây luôn cả chúng ta”.[5]
Nhà sử học George C. Herring nhận xét:[200]
Để làm vui lòng các cố vấn Mỹ, thỉnh thoảng Diệm cũng
nói trên đầu môi chót lưỡi về dân chủ, nhưng trong thực hành ông ta nắm lấy
những quyền lực tuyệt đối. Đích thân ông ta ngự trị ngành hành pháp của chính
phủ, đưa ba người anh em trai vào nắm ba chức trong nội các có sáu bộ, ông ta
có mọi quyền quyết định.
Sự tấn công dữ dội của Diệm vào những đối lập chính trị
đã gây nên sự bất mãn trong các thành phố cũng như ở thôn quê. Báo chí chỉ
trích chính phủ bị đóng cửa ngay.. Dùng quyền hành trong các sắc lệnh của tổng
thống, chính quyền Diệm đã lùa vào những “trại cải huấn” nhiều ngàn người Việt
Nam, cộng sản cũng như không cộng sản, những người bị coi như là đe dọa cho
trật tự công cộng. Chương trình cải huấn lúc đầu nhắm vào các thành phần kháng
chiến Việt Minh ở lại miền
Chính quyền có khuynh hướng cai trị dân với lòng nghi
ngờ và cưỡng bức”, một phúc trình tình báo của Mỹ kết luận năm 1960, và “đã
được đáp trả bởi thái độ bất thiện cảm và bất mãn của người dân.
Những báo cáo của cơ quan tình báo Mỹ CIA, soạn trong
tháng 2 năm 1957, mô tả chế độ Diệm như sau:[201]
Chế độ Diệm phản ánh ý nghĩ của Diệm. Một bộ mặt
chính quyền đại diện cho dân được duy trì, nhưng thực chất chính quyền là độc
tài. Quyền lập pháp của quốc hội bị hạn chế gắt gao; quyền tư pháp chưa phát
triển và tùy thuộc quyền hành pháp; và những nhân viên trong ngành hành pháp
không gì hơn là những tay sai của Diệm. Không có một tổ chức đối lập nào, dù
trung thành hay không, được phép thành lập, và mọi chỉ trích chính quyền đều bị
đàn áp... Quyền lực và trách nhiệm tập trung nơi Diệm và một nhóm nhỏ gồm có
những thân nhân của Diệm, những người quan trọng nhất là Ngô Đình Nhu và Ngô
Đình Cẩn.
Chế độ độc tài của Diệm, dựa trên một mạng lưới mật
vụ, tòa án quân sự, và công chức tham nhũng, không chỉ tuyên bố về sự nghiệp
chiến đấu chống Cộng (dù cho tới năm 1957, phong trào Cộng sản vẫn chưa có hoạt
động gì), mà còn chống bất cứ nhóm nào không chắc là trung thành với Diệm. Thật
vậy, nhiều người không Cộng sản bị Diệm tống vào tù hơn là người Cộng sản.
...Sự chuyên chế của Diệm, sự thiên vị trơ trẽn của
ông ta đối với những người Công giáo tị nạn từ ngoài Bắc vào so với phần còn
lại của dân chúng, và sự bạo hành đối với mọi người không đồng quan niệm chính
trị với ông ta đã tạo nên một sự liên kết chống Diệm mà ông ta rất sợ.
Theo sách Triangle of Death thì ngày 1 tháng 2 năm
1966, Lyndon B. Johnson (lúc này đã là Tổng thống Hoa Kỳ) gọi điện thoại cho
Thượng nghị sĩ Eugene McCarthay, nhắc lại chuyện chính quyền tổng thống John F.
Kennedy muốn tham chiến ở Việt Nam và đã cùng “bọn du côn” (phe đảo chính) để
hạ sát Ngô Đình Diệm.[202] Trong một bài đăng trên tuần san Weekly Standard
ngày 29-9-2003, James Osen đã trình bày và phân tích đoạn băng này và kết luận
rằng Tổng thống Kennedy phải chịu trách nhiệm về cái chết của Ngô Đình Diệm.
Thủ tướng
Sau này, trong cuộc phỏng vấn của Stanley Karnow, sử
gia chuyên về chiến tranh Việt Nam, hỏi tổng thống Johnson là ông có tin rằng
Diệm là “Winston Churchill (Thủ tướng Anh, góp phần thắng Đức Quốc xã tại châu
Âu) của Đông Nam Á” hay không; thì Johnson đã văng tục:
“Khốn kiếp, Diệm là thằng nhóc duy nhất mà chúng ta
(Hoa Kỳ) có ở đó. (Shit! Diem is the only boy we’ve got out there)” [204]
Chú Thích
1. Cong Luan, Nguyen (2012).
Nationalist in the
2. Lý Chánh Trung, Những
Ngày Buồn Nôn. Sài gòn, Nhà xuất bản Đối Diện, 1972, trang 133-138
3. Miller, Edward (2013).
Misalliance: Ngo Dinh Diem, the
4. The Lost Mandate of
Heaven: the American Betrayal of Ngo Dinh Diem, President of
5. a b c d e f g h i j k l m
n o Ngô Kinh Luân (ngày 6 tháng 11 năm 2013). “Ngô Đình Diệm - Bước đường từ
Tri huyện lên Tổng thống”. Báo Công An Nhân dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và
Văn nghệ Công An. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 7 năm 2017.
6. Moyar, p. 11
7. Jacobs, trang 19.
8. a b Fall, tr. 239.
9. Nhân Hưng (ngày 6 tháng
12 năm 2005). “Chuyện về những mối tình và con rơi của Ngô Đình Diệm”. Báo Công
An Nhân dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ Công An. Bản gốc lưu trữ
ngày 8 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2017.
10. Miller, tr. 21
11. Fall, p. 239
12. Miller, p. 25.
13. Jacobs, tr. 19.
14. Jacobs, tr. 20.
15. a b Fall, trang 239
16. Việc này được Hoài Nam Nguyễn
Trọng Cẩn ghi lại trong bài thơ sau:
Liệu thế không xong Binh chẳng được,
Liêm đằng giữ tiếng Lễ đừng rinh.
Công danh thôi thế là hưu hỉ,
Đại sự xin nhường lớp hậu sinh.
Nguyễn Phúc Tộc gia phả,
Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1995, tr. 405
17. a b Lockhart, Bruce
McFarland, Bruce McFarland (1993). The end of the Vietnamese monarchy. Council
on Southeast Asia Studies,
18. Trần Gia Phụng. "Ngô
Đình Diệm và hội Tam Điểm". Truyền thông số 24.
19. Bao Dai ou les derniers
jours de l’empire d’Annam (Bảo Đại hay là những ngày cuối cùng của đế quốc An
Nam) (Nhà xuất bản JC Lattés, trang 43)
20. Vô đề (III) bài 5, Phan
Bội Châu
21. a b Moyar, p. 13
22. JEAN BAPTISTE NGÔ ĐÌNH
DIỆM: THờI Kỳ CHƯA NắM QUYềN, 1897-1954, Chương Một - TỘI TỔ TÔNG Hể đã Phi dân
tộc thì thế nào cũng Phản dân tộc, 1963 – 2013 NĂM MƯƠI NĂM NHÌN LẠI, TẬP MỘT,
Nhà xuất bản Thiện Tri Thức Publications, 2013
23. Tuyển Tập "1963-2013
Năm Mươi Năm Nhìn Lại" (2013), Vũ Ngự Chiêu, trang 94
24. Tử ngục Chín Hầm và những
điều ít biết về Ngô Đình Cẩn, Dương Phước Thu, Nhà xuất bản Thuận Hóa. tr 25
25. Shiraishi Masaya(白石昌也). "The
Vietnamese Phuc Quoc League and the 1940 Insurrection".
26. Từ triều đình Huế đến
chiến khu Việt Bắc, Phạm Khắc Hoè, Nhà xuất bản Thuận Hoá 1987
27. Những uẩn khúc trong cuộc
đời ông chủ báo Nam Phong
28. Trần Gia Phụng. Giải oan
lập một đàn tràng. "Trường hợp Phạm Quỳnh".
29. “Góp thêm một ít tư liệu
chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh”. Bản gốc lưu trữ ngày 5 tháng 2 năm 2020.
Truy cập ngày 22 tháng 6 năm 2021.
30. Phim tài liệu: Sứ mệnh đặc
biệt, BÁO ĐIỆN TỬ ĐÀI TRUYỀN HÌNH VIỆT
31. Tại Sao Mỹ Thua Ở Việt
32. Time Magazine, ngày 4
tháng 8 năm 1961
33. Hammer, The Struggle for
34. Gullion, memcon, ngày 7
tháng 5 năm 1953, FRUS, 1952–1954, vol. 13, page 553–554
35. Duncanson, Government and
Revolution in
36. a b c d e f g h i j k l m
n o Edward Miller “Vision, Power and Agency: The Ascent of Ngô Đình Diệm,
1945–54“, Journal of Southeast Asian Studies, 35 (3), October 2004, pp 433–458
37. Walter J. Whittemore Jr
(ngày 8 tháng 2 năm 2012). Untimely Deaths by Assassination. iUniverse. tr.
126. ISBN 978-1-4620-3822-0. Truy cập ngày 19 tháng 4 năm 2013.
38. Stanley Karnow (ngày 23
tháng 11 năm 1991).
39. Tử ngục Chín Hầm và những
điều ít biết về Ngô Đình Cẩn, Dương Phước Thu, Nhà xuất bản Thuận Hóa. tr 27
40. John Cooney, The American
Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, A Dell Book,
41. Robert S.Mc.Namara: Nhìn
lại quá khứ. Tấn thảm kịch và những bài học Việt
42. Why
43. Pentagon Papers, Evolution
of the War.
44. a b c d e f g h i j k l m
Nhìn vào nền Đệ Nhất Cộng Hòa ở VN, Nguyễn Tiến Hưng, BBC tiếng Việt, 31 tháng
10 năm 2014
45. Pentagon Papers, Evolution
of the War.
46. Why
47. Why
48. Why
49. a b Why Vietnam,
Archimedes L.A Patti, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2008, trang 741
50. Blagov, trang 93
51. Chapman, p. 84.
52. Why
53. Anh Thái Phượng. Trăm núi
ngàn sông: Tập I. Gretna, LA: Đường Việt Hải ngoại, 2003. tr 99
54. Why
55. Emperor Bao Dai attempts
to dismiss Diem, History.com
56. Ngô Đình Diệm (1955). Lời
tuyên-bố truyền-thanh của Thủ-Tướng Chánh-phủ ngày 16-7-1955 về hiệp-định
Genève và vấn đề thống-nhất đất nước –
qua Wikisource. Trích: "Chúng ta chủ-trương chính-sách hòa-bình; tuy vậy,
không một âm-mưu nào, bất cứ từ đâu đến, có thể làm chúng ta xao-lãng mục-tiêu:
nền thống-nhất của đất nước, — nhưng thống-nhất trong tự-do, chứ không phải
trong nô-lệ. Phụng-sự chính-nghĩa quốc-gia, chúng ta tranh đấu hơn bao giờ hết,
cho công-cuộc thống-nhất lãnh thổ. Chúng ta không gạt bỏ nguyên-tắc tuyển-cử
coi như một phương tiện hòa bình và dân chủ thích đáng để thực-hiện nền
thống-nhất ấy. Tuy nhiên, nếu tuyển-cử là một căn-bản của nền Dân-chủ
chân-chính, nó có lý do hữu-hiện chỉ trong trường hợp được hoàn-toàn tự-do.
Nhưng đứng trước chế-độ áp-bức của Việt-Minh, chúng ta phải hoài-nghi về sự có
thể thực-hiện được những điều-kiện tự-do đầu phiếu cho miền Bắc."
57. a b Duncanson, Dennis J.
Government and Revolution in
58. From Prologue To Epilogue
In
59. Nguồn: Dwight D.
Eisenhower, Mandate for Change, 1953-56 (Garden City, NY: Doubleday &
Compnay, Inc., 1963), tr. 372
60. During the early 1960s,
the
61. Clark Clifford. Set a date
in
62. Cecil B. Currey. Chiến
thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới, trang 333
63. Báo Độc Lập ngày 29 Tháng
Một 1955, tr.8
64. https://www.voatiengviet.com/a/thong-nhat-lien-trieu-giai-phap-viet-nam/4591397.html
65. Tucker, Spencer C. (2000).
Encyclopedia of the Vietnam War. ABC-CLIO. tr. 366. ISBN 1-5760-7040-0 Kiểm tra
giá trị |isbn=: giá trị tổng kiểm (trợ giúp).
66. Karnow,
67. Vũ Văn Mẫu. Sáu Tháng Pháp
Nạn. Nhà xuất bản Giao Điểm, 2003, trang 31.
68. “Hòa Trân và Thân Hữu xuất
bản,
69. Cái chết của anh em nhà họ
Ngô: Những sai lầm của Ngô Đình Diệm, 13/11/2013, Báo Công an nhân dân điện tử
70. Bốn mươi năm nói láo. Cơ
sở Xuất Bản Sống Mới – Sài Gòn – 1969.Trang 205, 238
71. a b The Pentagon Papers -
Volume 1, Chapter 5, "Origins of the Insurgency in South Vietnam,
1955-1960"
72. a b Quân khu 8 ba mươi năm
kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng
khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), Đảng uỷ
- Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1998, trang 276-332
73. Chỉ riêng Quân khu 8 đã để
lại số vũ khí đủ trang bị cho 3 tiểu đoàn. Trong chiến dịch chống cộng, chính
quyền Việt Nam Cộng hoà đã phát hiện 707 hầm chứa vũ khí, thu giữ 119.954 vũ
khí và 75 tấn tài liệu.
74. Quân khu 8 ba mươi năm
kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng
khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang
285, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1998
75. Quân khu 8 ba mươi năm
kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng
khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang
303-304, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1998
76. Quân khu 8 ba mươi năm
kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng
khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang
321, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1998
77. Nam Trung Bộ, kháng chiến
1945 – 1975, Viện Lịch sử Đảng và Hội đồng biên soạn lịch sử Nam Trung Bộ xuất
bản, Hà Nội, 1992, tr. 247
78. The Vietnamese War:
Revolution and Social Change in the Mekong Delta, 1930-1975, page 288, David W.
P. Elliott, East Gate Publisher
79. Lịch sử Kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước 1954-1975 - Tập 2, Chính trị Quốc gia, 1995[cần số trang]
80. Marilyn B. Young, The
81. “Where Have All the
Flowers Gone”. Google Books. Truy cập 4 tháng 10 năm 2015.
82. Cecil B. Currey. Chiến
thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới, trang 344
83. Cecil B. Currey. Chiến
thắng bằng mọi giá. Nhà xuất bản Thế giới, trang 345
84. Nhân dân ngày 21 Tháng Một
1975
85. Robert K. Brigham,
Battlefield
86. Đấu tranh đòi địch thi
hành Hiệp định Genève; Giữ gìn, phát triển lực lượng cách mạng; Phong trào Đồng
Khởi (7/1954 - 3/1961) Lưu trữ 2014-03-06 tại Wayback Machine, Trang thông tin
điện tử tỉnh Tiền Giang
87.
88. TBT Trọng: '160 nghìn Đảng
viên hy sinh'
89. Quân khu 8 ba mươi năm
kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng
khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang
308, 313, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1998
90. The Straits Times, ngày 24
tháng 7 năm 1959
91. Báo Buổi sáng, số ngày
15-10-1959
92. Quân khu 8 ba mươi năm
kháng chiến (1945 - 1975), chương 4: Đấu tranh chính trị, giữ gìn lực lượng
khởi nghĩa từng phần, tiến tới Đồng Khởi (20-7-1955 đến cuối năm 1959), trang
326, Đảng uỷ - Bộ tư lệnh quân khu 9, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, 1998
93. Tư cách thành viên IMF mặc
dù không phải là nền kinh tế thị trường của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
94. Hiện tình kinh tế Việt Nam
– Quyển I, trang 22, Nguyễn Huy, Nhà xuất bản Lửa Thiêng, 1972
95. Nguyễn Văn Ngôn (1972),
trang 349-350.
96. a b TÁC ĐỘNG CỦA VIỆN TRỢ
MĨ ĐẾN KINH TẾ MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1960, NGUYỄN VŨ THU PHƯƠNG, Tạp
chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM, 2014
97. "Nhà Máy Giấy An
Hảo", Thế giới Tự Do, số 3 Tập X, trang 9.
98. Press and Information
Office Embassy of the
99. Nguyễn Huy (1972), trang
35-51.
100. Mark Moyar, Triumph
Forsaken: The Vietnam War, 1954-1965, tr. 72-73, Cambridge University Press,
2006, download
101. Theo Lâm Quang Huyên
(1997), Cách mạng ruộng đất ở miền Nam Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội, trang 39.
102. Marilyn Young, The
103. https://pdfs.semanticscholar.org/4e5d/bd7bd15b6a5831039c168d8e6b894a2aa34c.pdf
104. Lời phán quyết về Việt
105. “Giáo dục Việt Nam Cộng
hòa”. Truy cập ngày 28 tháng 12 năm 2009.
106. Nguyễn Thanh Liêm (2006),
tr. 54.
107. Nguyen Ngoc Bich, tr. 46.
108. Phan Xuân Hòa. Việt
109. Trần Văn Lục. Một thời để
nhớ: những sự thật về cố Tổng thống Ngô Đình Diệm và nền Đệ Nhất Cộng hòa.
110. Choinski, Walter. Tr. 58
111. Sales, Jeanne M. tr. 7
112. Smith, Harvey et al. tr.
148
113. Sự thật không thể chối
cãi!, Báo Nhân dân, 31/08/2018
114. Nguyễn Văn Trung, tạp chí
Bách Khoa số 175, ngày 15-4-1964, trang 37-43.
115. “
116. George C. Herring. Cuộc
chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt
117. George C. Herring. Cuộc
chiến dài ngày giữa nước Mỹ và Việt
118. Nhân dân ngày 5 Tháng Ba
1961
119.
120. a b c d e Nguyên nhân dẫn
đến phong trào Phật giáo 1963 ở miền Nam Việt Nam Lưu trữ 2016-05-06 tại
Wayback Machine, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 15/06/2013
121. Văn thư số 124 ngày
1-8-1963 của Ủy ban Bảo vệ Phật giáo (UBBVPG) kính gởi ông Frederick E. Nolting,
Đại sứ Hoa kỳ tại Sài Gòn. Hồ sơ lưu trữ tại chùa Từ Đàm, Huế.
122. Trần Trọng Trung (1987),
Một cuộc chiến tranh sáu đời tổng thống, Tập2, Nhà xuất bản Văn Nghệ TP HCM,
tr. 212
123. Nguyễn Phương Nam (2010),
Thảm họa của một “bầy diều hâu” về các tổng thống Mỹ trongchiến tranh Việt Nam,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, trang 188 – 190
124. a b Vũ Ngự Chiêu, Các Vua
Cuối Nhà Nguyễn (Thiên Mệnh Đại Pháp) 1884-1945 – Tập 3 (
125. a b c d 'The Vietnam War'
và khi Hoa Kỳ vào VN, Nguyễn Tiến Hưng, BBC Tiếng Việt, 25 tháng 9 năm 2017
126. Điện văn của Tòa Đại sứ Mỹ
ở Sài Gòn gửi bộ Ngoại giao ngày 13 tháng 10 năm 1961
127. The Pentagon papers. New
York Times, Bantam Publishing,
128. Không thể chuộc lỗi
(Failure to Atone). Bác sĩ quân y Mỹ Allen Hassan. Nhà xuất bản trẻ 2012
129. a b c Nhà Ngô thứ nhì nằm
xuống loạn lạc nổi lên, Nguyễn Tiến Hưng, BBC Vietnam, 2 tháng 11 năm 2017
130. a b c Tại sao phải giết
Tổng thống Ngô Đình Diệm ?, RFA, 2015-10-29
131.
132. a b Sự thật về Chiến tranh
Việt
133. Hoạt động ngoại giao của
chế độ Việt Nam Cộng hòa thời kỳ Ngô Đình Diệm (1955-1963), Trần Nam Tiến, Tạp
chí Phát triển Khoa học Công nghệ, Tập 18, Số X4-2015, download Lưu trữ
2016-09-23 tại Wayback Machine
134. a b Hai ông Diệm - Nhu và
những chiến dịch “phá đám” Sihanouk, PetroTimes, 25/10/2012
135. Nhân dân ngày 26 Tháng Hai
1961
136. Quốc Đại: Ai giết anh em
Ngô Đình Diệm? Nhà xuất bản Thanh Niên, 2003
137. Chuyện về điệp viên Ba
Quốc: Vụ ám sát Hoàng thân Sihanouk, 28/01/2015, Báo An ninh Thế giới
138. Nhân dân ngày 28 Tháng Một
1961
139. Nhân dân ngày 5 Tháng Hai
1961
140. “Người ám sát Ngô Đình Diệm
ở hội chợ Xuân Tây Nguyên, Báo điện tử Công an Nghệ An”. Bản gốc lưu trữ ngày
30 tháng 8 năm 2010. Truy cập ngày 7 tháng 2 năm 2013.
141. Karnow,
142. Topmiller, p. 2
143. a b c d PHÁP NẠN Ở HUẾ
TRONG LỄ PHẬT ĐẢN NĂM 1963, Nguyễn Hiền Đức, Viện nghiên cứu Phật học Việt
144. Gettleman, pp. 64–83
145. Karnow, p. 295.
146. Moyar, pp. 212–213
147. Gettleman, pp. 264–83.
148. Việt Nam Phật giáo sử luận,
Nguyễn Lang, trang 1063, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
149. Việt Nam Phật giáo sử luận,
Nguyễn Lang, trang 1067, 1068, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
150. Việt Nam Phật giáo sử luận,
Nguyễn Lang, trang 1085, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
151. Việt Nam Phật giáo sử luận,
Nguyễn Lang, trang 1086, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
152. Việt Nam Phật giáo sử luận,
Nguyễn Lang, trang 1090-1093, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, năm 2000
153. “
154. a b “
155. Gettleman, pp. 278–83
156. Moyar, pp. 212–16, 231–34
157. Tucker, pp. 292–93
158. "Vu Van Mau, Last
Premier Of South Vietnam, Dies at 84", New York Times, ngày 14 tháng 9 năm
1998
159. GIAI ĐOẠN 1955-1975: XÂY
DỰNG CNXH VÀ ĐẤU TRANH THỐNG NHẤT ĐẤT NƯỚC, Đánh thắng chiến lược “Chiến tranh
đặc biệt” của Mỹ (1961-1965), CHÍNH PHỦ Việt
160. Jacobs, pp. 93–96
161. Sự thật về Chiến tranh Việt
162. Sự thật về Chiến tranh Việt
163. a b William Colby. Một
chiến thắng bị bỏ lỡ. Nhà xuất bản Công an nhân dân. Hà Nội. 2007. Trang 134.
164. Sự thật về Chiến tranh Việt
165. Hồ sơ mới giải mật: CIA và
nhà họ Ngô (kỳ 3), Báo Công An Nhân dân, Chuyên đề An Ninh Thế giới và Văn nghệ
Công An, 27/04/2009
166. Viết tiếp về tướng Trần
Thiện Khiêm của chế độ Sài Gòn cũ: Lừa thầy, phản bạn
167. B. Diễm and D. Chanoff, In
the Jaws of History, page 100, Indiana University Press (ngày 22 tháng 6 năm
1999)
168. B. Diễm and D. Chanoff, In
the Jaws of History, page 101, Indiana University Press (ngày 22 tháng 6 năm
1999)
169. Sự thật về đảo chính năm
1963, BÙI CƯỜNG, Nguyệt san Pháp Luật TP.HCM, trích "Lúc 4 giờ 20 phút
chiều ngày 29-10-1963 tại Nhà Trắng, Tổng thống Kennedy triệu tập một cuộc họp
đặc biệt gồm 15 vị cố vấn ngoại giao cao cấp và chuyên gia an ninh quốc gia. Số
phận của Ngô Đình Diệm được định đoạt tại cuộc họp này. Biên bản tài liệu ghi
âm cho thấy ý kiến đối với cuộc đảo chính sẽ tiến hành của các đại biểu dự cuộc
họp là bất nhất. Nhưng thật lạ lùng là trong cuộc họp chẳng ai yêu cầu bỏ phiếu
biểu quyết và cũng chẳng ai thảo luận một cách hệ thống về hậu quả do cuộc đảo
chính có thể mang lại.
Ngay cả Tổng thống Kennedy
cũng không chủ động nghe ý kiến của người phản đối, chỉ buông xuôi bằng câu "Thôi
cứ để Lodge và các cộng sự của ông ta tùy cơ ứng biến, tới khi đó mọi việc sẽ
rõ!"."
170. Memorandum of Conference
with the President, ngày 29 tháng 10 năm 1963, 4:20 PM, Source: JFKL: JFKP:
National Security File, Meetings & Memoranda series, box 317, folder:
Meetings on Vietnam, 10/29/63
171. a b
172. B. Diễm and D. Chanoff, In
the Jaws of History, page 102,, Indiana University Press (ngày 22 tháng 6 năm
1999)
173. The Assassination of Ngo
Dinh Diem, Peter Kross, The HistoryNet.com, October 2004, trích: "On
October 3, however, Conein made contact with General Minh, who told him that a
new coup was in the offing and asked for American support if it succeeded. In
their discussion Minh revealed that the plan included the assassinations of
both Diem and Nhu."
174. a b The Assassination of
Ngo Dinh Diem, Peter Kross, The HistoryNet.com, October 2004, trích: "In
Saigon, Conein met secretly with General Don, one of the coup plotters, telling
him that the
175. “Ngo Dinh Diem biography”.
Spartacus.schoolnet.co.uk. Lưu trữ bản gốc ngày 7 tháng 4 năm 2003. Truy cập
ngày 26 tháng 10 năm 2012.
176. Những cuộc điện đàm cuối
cùng của Ngô Đình Diệm, 19/11/2013, Báo Công an nhân dân điện tử
177. The Pentagon Papers, Vol. 2
Ch. 4 Lưu trữ 2008-04-24 tại Wayback Machine, "The Overthrow of Ngô Đình
Diệm, May–November 1963", pp. 201–276,
178. B. Diem, In the Jaws of
History, p. 105.
179. a b "I can scarcely
believe the Americans would be so stupid."Moyar, p. 286
180.
181. Trần Văn Đôn, 1989, tr
227,228
182. Nguyễn Hiến Lê, Tôi Tập
Viết Tiếng Việt, 1988, tr. 21
183. Bốn mươi năm nói láo. Cơ sở
Xuất Bản Sống Mới – Sài Gòn – 1969. Trang 247
184. Richard M. Nixon, 1980,
Chương V
185. G.
186. “Viếng mộ cố TT Ngô Đình
Diệm tại nghĩa trang Lái Thiêu”. Người Việt. Truy cập 8 tháng 2 năm 2015.
187. Phạm Cường (ngày 18 tháng 8
năm 2005). “Kể chuyện dời mộ ở Sài Gòn nhân Lễ Vu Lan”. VietNamNet. Bản gốc lưu
trữ ngày 14 tháng 4 năm 2016. Truy cập ngày 17 tháng 7 năm 2017.
188. Phan Khôi. "Một việc
rất có ảnh hưởng đến tâm thuật của sĩ phu: Cách chức và khai phục ông Ngô Đình
Diệm". Báo Tràng An (Huế), số 9 (29 Mars 1935), tr. 1. In lại trong: Phan
Khôi, Tác phẩm đăng báo 1935, Lại Nguyên Ân sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản.
Tri Thức, Hà Nội, phát hành tháng 10/2013.
189. Nhân dân 24 Tháng Sáu 1954
190. Quốc sử lớp nhất, Phạm Văn
Trọng & Phạm Thị Ngọc Dung, Sài Gòn, 1966
191. Ngô Đình Diệm là người yêu
nước, BBC online, 7 tháng 11 năm 2013
192. a b c Cái chết của anh em
nhà họ Ngô: Những sai lầm của Ngô Đình Diệm, 13/11/2013, Báo Công an nhân dân
điện tử
193. Nguyễn Văn Tương, Nước Non
Xa, Hoa kỳ, 2000, trang 113
194. a b Ngô Đình Diệm trong mắt
những người cùng thời: Quan lại cực đoan, 25/07/2008, Báo Công an nhân dân điện
tử
195. John Cooney, The American
Pope: The Life and Times of Francis Cardinal Spellman, A Dell Book, New
York.[cần số trang]
196. Tại sao tôi chống Chiến
tranh Việt
197. Dennis Bloodworth (1970),
An Eye For The Dragon, Farrar Publisher,
198. Ông Ngô Đình Diệm bỏ lỡ
"cơ hội" trong bài trả lời phỏng vấn của Giáo sư Đặng Phong trên BBC
ngày 20 tháng 12 năm 2006
199. Richard J. Barnet,
Intervention and Revolution[cần số trang],
200.
201. Intervention and
Revolution" by Richard J. Barnet, A Meridian Book,
202. LBJ: Kennedy White House
killed
203. Lee Kuan Yew profile, Joel
R. Kramer, ngày 23 tháng 10 năm 1967, The Harvard Crimson
204. Nguyên văn: Shit! Diem is
the only boy we’ve got out there – Stanley Karnow,
No comments:
Post a Comment