Tổng
Thống Ngô Đình Diệm
http://vnqvn.blogspot.com/2015/10/so-luoc-ve-than-su-nghiep-cua-co-tt-ngo.html
*
Bài viết này là của Linh mục Sử gia
Nguyễn Phương (1921-1993), Giáo sư Sử Học tại Viện Đại Học Huế (1957-1975), tác
giả một số công trình nghiên cứu sử học như sau:
Liên
lạc giữa Mỹ và Việt Nam (1957), Sự quan trọng của Đông Dương trước mặt quốc tế
(1957), Ánh sáng Dân Chủ (1957), Phương Pháp Sử Học (1964), Việt Nam Thời Khai
Sinh (1965), 82 Năm Việt Sử (1965, 125 Năm Thế Giới Sử (1965),Việt Nam Thời
Bành Trướng: Tây Sơn (1967), The Ancient History of Vietnam (1976, di cảo chưa
in), A parade of American Puppets (a story of South Vietnam from 1954 to 1975),
1978, di cảo chưa in, Cổ Sử Việt Nam trong Ngoại kỷ Toàn Thư, 1973, di cảo chưa
in, Việt Nam Thời Bành Trướng: Trịnh Nguyễn, 1973, di cảo chưa in);
Ngài
cũng là dịch giả cuốn Nhật ký Chúa Giê-Su (Avec Jésus, au jour le jour, bản
thảo chuyển ngữ tác phẩm của Linh mục Aulagnier), Đức Trinh Nữ Maria trong Di
bút của Chị Maria Valtorta (La Vierge Marie dans l’oeuvre de Maria Valtorta của
Linh Mục Gabriel M. Roschini, O.S.M) và tác phẩm chuyển ngữ trên 5,000 trang
(chưa in) về một danh tác thuộc phạm vi Mạc Khải Tư (Révélation Privée) của Chị
Maria Valtorta có tên «Người Thần Chuyện Thánh» (dựa trên bản tiếng Anh có tên
The Poem of the Man-God, năm tập; bản tiếng Pháp có tên L’ÉVANGILE tel qu’il
m’a été révélé, mười tập; bản tiếng Ý có tên IL POEMA DELL’UOMO-DIO, mười tập.)
Linh mục sử gia Nguyễn Phương (bút hiệu Trúc Long) đã từng cộng tác với một số báo
chí trong nước trước năm 1975 như Tạp chí Bách Khoa (Sài Gòn), Tạp chí Đại Học
(Huế), Tạp san Sử Địa của nhóm sinh viên Đại Học Sư Phạm Sài Gòn. Ở hải ngoại
Linh mục Nguyễn Phương cộng tác với Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong, VA với khoảng
150 bài viết, một số bài cho tạp chí ĐấtMẹ của ông Nguyễn Phi Thọ ở Houston.
Tháng
10-1963, Linh mục Nguyễn Phương đã có cuộc tranh luận (bút chiến) với Văn Tân,
Viện trưởng Viện Sử Học Hà Hội về chủ đề «Ai đã thống nhất Việt
Nguyễn
Ánh. Sử gia Hoa Kỳ Alexander B. Woodside đã viết về sử gia Nguyễn Phương và
nhắc đến cuộc bút chiến hi hữu này trong cuốn
Năm
2011, Sử gia Wynn Wilcox, Giáo sư Trường Đại Học Connecticut State, trong tác phẩm Allegories of the Vietnamese
Past (do Trường Đại Học Yale phát hành) đã phân tích về cuộc bút chiến nói trên
khá kỹ càng, và mới đây ngày 11 tháng 4-2015, sử gia Wynn Wilcox đã có trình
bày một bài tham luận dài có tên «Vietnamese-American Historians in the United
States, 1954-present» trong một cuộc hội
thảo sử học gồm các giáo sư đại học Hoa Kỳ, nói về các công trình biên khảo sử
học của Linh mục Sử gia Nguyễn Phương,
dựa trên các tư liệu lịch sử của tôi đã phổ biến trước đây. Bài viết của GS
Wilcox sẽ được Giáo sư Lê Đình Cai chuyển ngữ và sẽ in trên Tập Kỷ Yếu Viện Đại
Học Huế sẽ được phát hành vào tháng 12-2015.
Một
số sử gia gạo cội của Hà Nội sau này như Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng đã công
tâm hơn khi cho rằng Nguyễn Huệ chưa bao giờ thống nhất được đất nước và họ đã
ngả về luận thuyết của Linh mục sử gia Nguyễn Phương, và cho rằng đó là công
trình của Gia Long Nguyễn
Bài
viết về Cố TT. Ngô Đình Diệm sau đây của Trúc Long Nguyễn Phương được đăng tải
trên Tuần báo Văn Nghệ Tiền Phong (số 119) của Chủ Nhiệm Nguyễn Thanh Hoàng ở
Nguyễn
Đức Cung
http://vnqvn.blogspot.com/2021/10/tong-thong-ngo-inh-diem.html#more
Tổng
Thống Ngô Đình Diệm
Nguyễn Phương
Tháng 2 năm 1946, Hồ Chí Minh trải qua một cơn khủng
hoảng lớn, bị kẹt cả với Lư Hán, cả với d’Argenlieu. Hơn bao giờ hết, ông cần
một người quốc gia chân chính, chẳng những để làm bình phong cho ông trước mặt
quốc tế, mà còn để có thể hô hào nhân dân trong nước ủng hộ.
Nhìn quanh với cặp mắt tinh đời của ông, ông vẫn
không tìm được ai hơn cụ Ngô Đình Diệm, kẻ đã bị cán bộ ông bắt giam ở mạn
ngược, nhưng lúc đó đang được đem về khám Hà Nội để điều trị bệnh sốt rét. Ở
Phủ Chủ Tịch Nhà Nước, khi đối diện Hồ Chí Minh và nghe ông này đề nghị tham
chính, cụ Diệm đã không ngần ngại nói:
«- Không thể
được, Ông có chính sách cứu nước của ông, và tôi có chính sách của tôi. Ông có
cam đoan được rằng ông sẽ bỏ thuyết vô sản chuyên chính không? Khắp nơi, cán bộ
ông đang thi hành thuyết đó. Họ giết hết các nhà quốc gia chân chính. Họ giết
cả anh em tôi».
Đến đây Hồ Chí Minh cảm thấy phải chữa mình. Ông nói:
«Vậy mà tôi không hay biết gì cả. Nước
đang lâm cảnh loạn ly. Xin ông ở lại với tôi để cùng nhau chống Pháp».
Dường như cả hai người đều hiểu rằng chỉ có vì sợ cụ
Diệm mới chấp nhận. Cụ lên tiếng: «Ông
biết tôi là ai không?Tôi không phải hạng hèn nhát.» Hồ Chí Minh vội vàng
nói đỡ: «Không. Ông không hề hèn nhát.»
Cụ Diệm tiếp: «Vậy thì để cho tôi đi».
Và Hồ Chí Minh bỗng nhiên tha cụ Diệm, thật là một sự kiện đáng lưu ý. Hỏi tại
sao một kẻ, trong năm 1925, đã phản bội cụ Phan Bội Châu, một nhà quốc gia cách
mạng, kẻ đã giết Tạ Thu Thâu, cũng là cộng sản như ông, chỉ vì sợ họ đối lập
với ông lại có thể trả tự do cho cụ Diệm, đang khi cụ ở dưới quyền sinh sát của
ông? Tại sao cụ Diệm, một tù nhân lại có thể lên án Cộng sản trước mặt Hồ Chí
Minh, một tên trùm Cộng sản, mà ông không trừ cụ đi để ngừa nhiều khó khăn về
sau? Phải chăng Hồ Chí Minh kính nể cụ Diệm, vì mong rằng Cụ có thể cứu nước,
trong khi chính mình ông đang bị kẹt nhiều đàng?
Thật ra, không sao trả lời được các câu hỏi đó cho
dứt khoát. Vả lại, trên đời, hỏi mấy ai hiểu nỗi nhiều hành động của Hồ Chí
Minh? Năm 1962, khi Bernard Fall, một nhà báo Mỹ rất thân với Cộng sản, chất
vấn về cuộc đời của ông, ông xin hắn để cho ông giữ một tí bí mật về cuộc đời
của ông. Biết đâu việc thả cụ Diệm là
một trong các «bí mật» đó? Nhưng có
một điều này đã thành một sự kiện lịch sử, là Hồ Chí Minh đã thả cụ Diệm chính
khi cụ tuyên bố với ông rằng cụ vốn có một chính sách cứu nước không giống với
của ông ta.
Hỏi cụ Diệm là ai mà Hồ Chí Minh phải kính nể như
vậy? Để trả lời, có lẽ không gì bằng nhắc lại câu ngạn ngữ mà dân chúng miền
Trung quen nói từ sau 1933:
Đày vua không Khả,
Đào mả
không Bài,
Hại dân
không Diệm.
Lịch sử thất bại của gần một trăm năm đô hộ của Pháp
có thể tóm tắt trong ba câu ngắn ngủi đó, và trong ba câu, gia đình họ Ngô đã
chiếm mất hai, «không Khả» tức chỉ cụ
Ngô Đình Khả, thân sinh cụ Diệm, và cố nhiên «không Diệm», Diệm chính là Cụ.
Pháp xâm lăng Việt
Cụ Ngô Đình Khả đã khẳng khái chống lại mục đích thứ
nhất. Thiếu thời Cụ đi tu. Vì thông minh dĩnh ngộ, Cụ được gửi sang Pénang, một
đảo thuộc Anh ở Mã Lai, nằm về phía Vịnh Băng gan, theo học Cao học tại đó,
nhưng bấy giờ đảng Cần Vương đang hoạt động mạnh và nhiều người trong họ hàng
Cụ tử đạo, nên Cụ phải bỏ dở việc tu để trở về giúp gia đình. Tài học và đức độ
của Cụ đạt vào tình trạng phải đứng ra gánh vác việc chung. Cụ ra làm quan,
đứng đầu triều đình của Thành Thái, và đồng thời là thầy dạy của nhà vua. Khi
Pháp manh tâm đày vua Thành Thái, Cụ đứng lên công khai phản đối và bỏ triều
đình về hưu. Câu «Đày vua không Khả»
còn có nghĩa là đày vua không có thể, vì Khả 可 là có
thể. Thực ra Pháp vẫn đày vua Thành Thái, nhưng việc phản đối của cụ
Thượng Khả đã đặt một đà chống Pháp cho
các người nghĩa
Kế cụ Ngô Đình Khả là cụ Nguyễn Hữu Bài. Cụ Thượng
Bài, với chức Thượng Thư Bộ Lại, một vị quan được Pháp kính nể bậc nhất. Nhưng
khi việc mưu đồ bới lăng tẩm để lấy vàng và bảo vật được tiết lộ, Cụ phản đối
kịch liệt và cuối cùng Pháp phải thúc thủ. «Đào
mả không Bài» còn có nghĩa là đào mả không có giấy phép vì Bài 牌 cũng có
nghĩa là giấy phép.
Khi cụ Ngô Đình Diệm lên thay thế cụ Thượng Bài dưới
triều Bảo Đại, cụ Diệm chỉ chấp nhận chức vụ đó với điều kiện là Pháp thay đổi
chính sách đô hộ. Để cho việc Bảo Đại về chấp chính được xuôi thuận và Pháp
khỏi mang tiếng với quốc tế, Pháp đã hứa. Nhưng khi công việc đâu vào đấy rồi,
chính sách Pháp lại vẫn sau như trước. Và cụ Diệm đã trả ấn từ quan để cho Pháp
biết rằng chế độ đô hộ phải chấm dứt, không chóng thì chầy. «Hại dân không Diệm».
Trước khi về nhậm chức ở triều đình, cụ Diệm đã làm
tuần phủ hai tỉnh Phan Rang và Bình Thuận, một quan tuần phủ trẻ tuổi nhất, vì
khi đến trấn nhậm vùng đó, cụ mới có 28 tuổi.
Khi Hội Đồng Cách Mạng của Dương Văn Minh tháng 11,
1963, giết Cụ rồi, họ chỉ công nhận cụ Diệm là Tuần Phủ, không kể gì đến chức
Tổng Thống đã đành, mà cũng bỏ qua cả chức Thượng Thư Bộ Lại của Cụ. Chỉ một sự
kiện đó đã đủ để đánh giá cả Hội Đồng Cách Mạng nói chung và Dương Văn Minh, kẻ
đã ra lệnh giết Cụ, nói riêng.
Thời cụ Diệm trấn nhậm vùng Phan Rang, là một thời
bất an, vì bấy giờ Cộng sản bắt đầu bạo hành trên toàn cõi Đông Dương. Nhưng
càng gặp khó khăn, cụ Diệm càng tỏ ra tài cán. Thay vì đục nước béo cò, nước
càng đục phèn càng quý. Đang khi phòng Nhì Pháp bắt bớ dân chúng vì tình nghi
Cộng sản, Cụ lại càng ra tay bênh vực dân lành. Một tác giả Mỹ không mấy tử tế
với họ Ngô đã phải nói tóm tắt về Cụ trong thời đó như sau: «Đối với Pháp, Ông là một công chức gương
mẫu, đối với người Việt, Ông là nhà cầm quyền trẻ tuổi mà tài cán, hết mực cần
cù, làm tròn phận sự mà bàn tay không bị vấy bẩn».
Một nhân vật như thế, chắc chắn Hồ Chí Minh phải biết
và phải kính nể, vì thân phụ của ông cũng từng làm quan trong thời Pháp thuộc
và ít ra ông cũng đã biết rằng làm được một ông quan thanh liêm và thương yêu
dân không phải dễ. Nguyễn Sinh Sắc, cha
của Nguyễn Sinh Cung (tức Hồ Chí Minh) đã từng làm tri huyện Bình Khê tức Bình
Định. Quan huyện đâu có quyền tra tấn ai. Vậy mà cụ huyện Sắc đã tra tấn người
ta đến chết, nên bị cách chức. Việc này dân Bình Định còn nhớ rõ, và thường kể
lại mỗi khi có dịp nhắc chuyện cũ.
Thoát tay Hồ Chí Minh rồi, cụ Diệm không ngồi yên để
nhìn thời thế và chịu đựng cảnh loạn ly. Cụ đã tuyên bố với Hồ Chí Minh rằng Cụ
có chính sách Cứu nước riêng của Cụ, nay Cụ tìm cách đem nó ra thực hiện. Bằng
cách nào? Không theo Cộng sản tức là chế độ tước đoạt mọi quyền lợi của người
dân, cả về mặt vật chất, cả về mặt tinh thần, cụ Diệm, cụ Diệm đặt căn bản hoạt
động chính trị của Cụ trên tự do, nhân bản mà Cụ gọi là thuyết Nhân Vị. Để thực
hiện một thuyết quán xuyến như thế trong giai đoạn đất nước đang bị thực dân và
Cộng sản xâu xé, tất Cụ phải liên minh với thế giới tự do, đồng chí hướng. Vì
thế Cụ sang Nhật, rồi từ Nhật, sang Mỹ, rồi từ Mỹ về u châu, để kêu gọi sự ủng hộ của người nước
ngoài, và để liên kết đồng bào tai mắt đang lưu vong hải ngoại.
Và cuối cùng, thời cơ của nhà Chí sĩ đã đến. Nói rằng
thời cơ của nhà Chí sĩ, vì đây không phải là thời cơ của những chính khách xôi
thịt. Nếu là cơ hội xôi thịt, thế tất không bao giờ đến phần Cụ, và vạn nhất có
đến nữa, Cụ cũng chẳng thèm nào, như quá khứ đã chứng minh.
Nhưng chính là cơ hội hy sinh vì quốc gia dân tộc, cơ
hội kề vai gánh vác một trách nhiệm mà tất cả những kẻ từ trước đến nay ngồi
chờ, đều thoái thác. Mọi người đều nghĩ rằng: làm Thủ Tướng Việt
Bấy giờ là lúc vận mệnh Việt
Nhiều kẻ nhanh miệng trả lời rằng dựa thế Mỹ. Trả lời
như vậy rất dễ, nhưng không phải là đúng. Nếu cụ Diệm chỉ biết dựa vào Mỹ, thì
cách đó chỉ mấy tháng, vào cuối tháng 4 năm 1955, Cụ đã hết hẳn thế dựa, như
vốn có giấy trắng mực đen làm chứng, và rồi, vào đầu tháng 11, 1963, Cụ đã lên
phi cơ Mỹ đến những chỗ an toàn nhất cho đời của Cụ, chứ đâu phải bị Dương Văn
Minh giết. Nhưng vì điểm tựa của Cụ là khí thiêng linh tú của non sông, là vận
mệnh bất khuất của dân tộc, nói cách khác, là
Thiên Chúa,
nên khi nghe tiếng gọi làm nhiệm vụ, Cụ đã không từ nan. Cụ dấn thân bất
chấp khó khăn, hay chính vì khó khăn.
Thật vậy, sau Điện Biên phủ, khi việc chia cắt đất
nước đã hiện hình, và không ai dám đứng ra lãnh đạo Việt Nam Tự Do, Bảo Đại và
Pháp buộc lòng phải mời cụ Diệm ra làm Thủ Tướng, ý đồ dùng Cụ như một con cờ
thí. Mỹ cũng vậy, vì họ không còn có thể nghĩ đến ai khác.
Từ Paris, Bill Gibson của tòa Đại sứ Mỹ đã đi
Mỹ cũng can thiệp với Pháp về việc đó. Khi Cụ đáp
chân xuống Sài gòn, ngày 24 tháng 6 năm 1954, thật là một cảnh đáng thương hại.
Những kẻ biết thời thế đều nói với nhau, giống như lời tiên đoán của Bảo Đại: « Chỉ được 3 hay 6 tháng là cùng». Vì cụ
Diệm về làm Thủ Tướng mà trơ trọi hai bàn tay không: Quân đội nằm dưới quyền
của tướng Nguyễn Văn Hinh, nghĩa là dưới quyền Pháp, và cảnh sát dưới quyền Lê
Văn Viễn, hay Bảy Viễn, nghĩa là dưới quyền Bảo Đại, vì Bảy Viễn đã mua Bảo Đại
chức Tổng Giám Đốc Cảnh Sát với giá một triệu đô la. Còn dân chúng ở thôn quê
thì sao? Thì ở dưới quyền các giáo phái. Vậy mà những vấn đề phải giải quyết
cấp tốc lại vô số, và toàn là những vấn đề khổng lồ…
Cụ Diệm chấp chánh ngày mồng 7 tháng 7, thì ngày 20
tháng đó Việt Nam bị chia cắt, lấy vĩ tuyến 17, tức là con sông Bến Hải làm
giới hạn giữa Nam Bắc. Theo hiệp định Genève, sự chia cắt này chỉ là một giải
pháp tạm thời, đợi đến tháng 7 năm 1956 sẽ có tổng tuyển cử để thống nhất đất
nước và định đoạt số phận chính trị của Việt Nam. Không nói đến viễn ảnh cộng
sản sẽ thắng trong hai năm nữa, việc cấp bách hơn cả, đó là định cư gần một
triệu dân Bắc tỵ nạn Cộng sản. Việc này Cụ đã làm được một cách hết sức thành
công, nhờ tiền trợ cấp của người Mỹ. Khu Hố Nai là bằng chứng lâu dài về sự
thành công đó.
Nhưng nắm chính quyền, cần phải có quyền. Không ai
giao cho đi nữa, thì cũng phải tự tạo lấy mới mong làm được việc gì. Vì nghĩ
như thế, cụ Diệm bắt đầu tìm cách nắm lại quân đội.
Khi Cụ bắt đầu lấy quyền Thủ Tướng bắt tướng Nguyễn
Văn Hinh giao trả quân đội, mọi người đều đoán là Cụ sẽ thất bại lớn. Chín
người trong số 15 bộ trưởng của Cụ, theo kiểu sợ thuyền chìm nên chuột bỏ chạy,
đã đồng loạt từ chức để mong Bảo Đại chiếu cố trong nội các sau. Ngờ đâu,
thuyền không chìm, vì Cụ đã khôn kéo dùng các ghế Bộ Trưởng bỏ trống đó để mua
chuộc các giáo phái. Đang khi tướng Hinh và Bảy Viễn rộn ràng lo việc đón Bảo
Đại về lập nội các mới, bỗng nhiên các giáo phái tuyên bố đứng về phía Cụ. Thế
là Bảo Đại hết về. Nội các mới của Hinh-Viễn chết nghẹt khi chưa thành hình và
tướng Hinh phải bỏ Sài Gòn sang Pháp.
Hết bước này đến bước khác vì con đường còn dài. Sào
huyệt của Bảy Viễn ở Đại thế giới phải không còn nữa, mới có thể yên tâm nghĩ
đến xây dựng nào. Nhưng chạm đến Bảy Viễn là chạm đến chỗ nhạy cảm nhất của Bảo
Đại, vì tất cả sự xa hoa của vị phế đế là nhờ vào đó.
Hơn nữa, chạm đến Bảo Đại lại cũng là chạm đến Pháp,
vì sợi dây mong manh còn lại để nối Pháp với Việt
Sáu giờ tối 28, tôi cầm điện văn đến văn phòng Ngoại
trưởng Dulles. Ngoại trưởng ký vào. Sau nhiều cuộc bàn cãi lâu dài và sau những
vấn đề đau óc do đó mà ra, lần nữa, chúng tôi lại có hy vọng đạt được một giải pháp – chúng tôi có thể nói
được rằng, đã đạt được cả một Đại Hiến chương. Chúng tôi trù liệu cho diễn văn
(thay thế cụ Diệm) đến trước khi Collins đáp xuống Sài gòn để cần phải sắp đặt
gì thì sắp đặt sẵn, cho guồng máy chạy theo nhịp độ của chính sách mới. Thế
rồi, không lâu sau khi Dulles ký vào điện văn, tôi lại nhận được điện thoại của
ông ta. Ông ta vừa nhận được điện văn của Lansdale.Chiến tranh lại tái phát giữa Bình Xuyên và Chính Phủ.»
Khi được tin điện văn đã ký, Pháp và Bảo Đại cùng
tầng lớp các chính khách xôi thịt nhảy mừng. Họ cuống quít chuẩn bị lên thay
thế cụ Diệm. Có ngờ đâu chiến tranh kết liễu chỉ sau vài giờ, ít ra ở giữa
thành phố, và quân đội của Chính phủ đại thắng. Mỹ vội vã hủy diễn văn thay thế
cụ Diệm và Collins đến Sài gòn, gượng gạo làm bộ như không có gì xảy ra. Sở dĩ
phải nói hơi chi tiết về sự tráo trở của tướng Collins, đó là vì đối với Việt
Nam, nhất là đối với cụ Diệm, số các nhà ngoại giao và cầm quyền Mỹ, có tư cách
và hành động giống như tướng Collins không phải ít. Họ tỏ ra hách dịch, trịch
thượng rồi áp đảo, không phải chỉ khi chính sách Việt Nam khác với chính sách
Mỹ mà thôi, mà cả những khi ước muốn cá nhân của họ không được thỏa mãn. Và, có
quyền hành lại có tiền, họ làm gì mà chẳng được, khi giúp đỡ, cũng như khi quấy
phá. Đàng khác, nếu nước Việt
Dầu sao, sự thất bại của tướng Collins đã làm cho các
nhà cầm quyền và ngoại giao Mỹ cần thận trọng trong một thời gian. Giây liên
lạc Việt-Mỹ lại trở nên tốt đẹp. Cụ Diệm cố nhiên lợi dụng cơ hội này để đẩy
mạnh chương trình của Cụ. Những kẻ quấy cụ, lục tục rời Sài gòn:
Tướng Lawton Collins ngày 14 tháng5, và tướng Paul
Ély, ngày 24 tháng 6. Pháp cũng triệt hồi đoàn quân viễn chinh của họ và hủy bỏ
Tòa Cao Ủy Đông Dương. Còn ảnh hưởng của Bảo Đại Sự thực, Bảo Đại cũng không
còn ảnh hưởng gì sau vụ Bình Xuyên thất bại. Nhưng trên pháp lý Bảo Đại vẫn còn
là Quốc Trưởng, và phải chấm dứt tình trạng pháp lý thất lý này. Từ Pháp, Bảo Đại
gửi về một diễn văn cách chức Thủ Tướng của cụ Diệm và ủng hộ Bảy Viễn. Khi Bảy
Viễn thất bại, nhiều người đặt vấn đề «nhổ
cỏ phải nhổ cho hết rễ». Cụ vốn trọng đạo quân tử. Nhưng trước tình thế
nghiêm trọng «một mất một còn» của
đất nước, Cụ không thể làm gì hơn ngoài việc mở một cuộc Trưng Cầu Dân Ý, vì «Ý Dân là Ý Trời». Dân đã truất phế Bảo
Đại theo thể thức, và ngày 26 tháng 10, 1955, Cụ Diệm lên làm Tổng Thống đầu
tiên của Cộng Hòa
Đến đây, cụ Diệm đã làm xong việc mà Hồ Chí Minh đề
nghị với Cụ hợp tác để cùng làm với ông ta: đó là việc chống Pháp. Nhưng Hồ Chí
Minh chống được Pháp rồi, ông lại tiếp tục chống dân chúng Việt
Chương trình cứu nước của cụ Diệm không phải như của
Hồ Chí Minh. Cụ chống Pháp không phải để phá dân, mà để giúp dân. Được rảnh tay
cả đối với Pháp, cả đối với Mỹ - ít ra trong một thời gian - Cụ làm việc một
cách tích cực. Các năm từ 1956 đến 1960, nói được là những năm vàng của thế kỷ
ở Việt
Nhưng với sự thịnh vượng đang lên, một chính sách
quốc gia phải được hình thành, nghĩa là Việt Nam vì Việt Nam trước đã, cũng
giống như Mỹ phải vì Mỹ trước đã. Và chính sách này thế tất phải bắt đầu với sự
kiện nhà cầm quyền Việt
Người ta bắt đầu nói xấu cụ Diệm, cũng là bất lực,
cũng là cứng đầu. Rồi từ đó suy diễn ra dài và dài lắm. Cụ Diệm sẽ là nhà độc
tài, trái với chính nghĩa dân chủ của Mỹ, mà không hợp với dân chủ là không
được lòng người Mỹ, mọi người Mỹ. Và không đẹp lòng người Mỹ sẽ là không đẹp
lòng hầu hết mọi người. Cụ Diệm xấu trước, gia đình Cụ Diệm xấu sau, nhất là cố
vấn Ngô Đình Nhu. Cố vấn Nhu xấu vì ông là cố vấn, cũng như cụ Diệm xấu chính
vì cụ Diệm muốn làm cụ Diệm chớ không muốn làm bù nhìn. Trời ơi! Như vậy thì
xấu thật rồi! Và bất cứ gì cũng có thể đứng lên chống lại Cụ.
Và Phật giáo nổi lên, bỗng nhiên nổi lên! Chống lại
Cụ. Và Cộng sản nổi lên! Cũng bỗng nhiên nổi lên! Chống lại Cụ. Và cũng bỗng
nhiên Cụ cần phải có Mỹ giúp đặc biệt mới có thể đứng vững. Nhưng Mỹ giúp phải
có điều kiện: Cố vấn Mỹ phải ở khắp nơi, quân đội Mỹ phải vào Việt Nam, Cam
Ranh phải được nhường, Cao nguyên phải được nhường. Nói cách khác, Việt
Nói với ai thì còn có thể chứ nói với cụ Diệm những
điều đó thật là hoàn toàn vô ích. Nói
một lần, nói hai lần, nói bằng lời, nói bằng việc, cụ
Diệm đã không nghe, vẫn không nghe, vì một lý do giản dị này, là không thể
nghe. Đối với Cụ, nguyên tắc không thể đem ra làm đồ đổi chác, và nguyên tắc là
nước Việt
Vì thái độ của Cụ Diệm là như vậy, và thâm tín của Cụ
là như vậy, nên sau khi các thứ khác nổi dậy, các tướng lãnh Việt Nam cũng nổi
dậy. Tội nghiệp cho các tướng lãnh! Họ bị mua để nổi dậy, họ cảm thấy «đứng dậy không nổi». Đối với họ, không
gì bằng Cụ Diệm, mà giá đem ra mua họ, nhìn lại không đáng gì. Họ hoang mang,
họ lo lắng. Nhưng đến khi họ bị đe dọa phải nổi dậy, bấy giờ họ nổi dậy thật,
với một kế hoạch có sẵn. Bấy giờ là đầu tháng 11, 1963.
Giữa tiếng súng long trời lở đất dồn vào Dinh Gia
Long, xảy ra cuộc đối thoại sau đây, không phải giữa Chủ Tịch Hồ Chí Minh và tù
nhân Ngô Đình Diệm, mà giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Cabot Lodge, Đại sứ Mỹ:
-Cụ Diệm: Ông có biết chính sách của Hoa Thịnh Đốn ra
thế nào trước tình trạng này
-Ô. Lodge: Tôi không thể nói gì được. Bây giờ mới là
4:30 sáng ở Hoa Thịnh Đốn.
-Cụ Diệm: Nhưng ông cũng phải có một ý kiến nào đó về
chính sách Mỹ chứ?
-Ô. Lodge: Tôi biết là tôi phải lo cho Cụ được an
toàn. Tôi muốn liệu đem Cụ ra khỏi nước. Ý Cụ làm sao?
-Cụ Diệm: Tôi sẽ làm theo như bổn phận và lương tri
bảo tôi. Tôi sẽ tìm cách tái lập trật tự.
Đi lại cũng giống như Cabot Lodge nói Mỹ có chính
sách của Mỹ, và Cụ Diệm có chính sách của Cụ Diệm, giống như trong cuộc đối
thoại với Hồ Chí Minh gần 20 năm trước. Nhưng chung cuộc lần này không giống
lần trước. Lần trước Cụ đối thoại với một tên trùm Cộng sản và Cụ được thả tự
do thi hành chính sách của Cụ. Nay Cụ nói với người đại diện của một cường quốc
lãnh đạo thế giới tự do, và Cụ bị giết cũng chính vì Cụ thi hành chương trình
đó.
Giết Cụ Diệm rồi, Hội Đồng Cách Mạng của Dương Văn
Minh lúng túng nói quàng nói hoảng như muốn tránh trút trách nhiệm về việc đã
xảy ra. Nhưng Bạch thư của Ngũ Giác Đài (The Pentagon Papers) chép rằng: «Về việc đảo chánh lật đổ Ngô Đình Diệm, Mỹ
phải lãnh đầy đủ phần trách nhiệm của mình. Bắt đầu từ tháng 8, 1963, bằng
nhiều cách chúng ta đã cho phép, đã phê chuẩn, đã thúc dục các cố gắng đảo
chánh của các Tướng lãnh Việt
Mấy hàng này nhắc lại một cách tóm tắt và nói lên chỗ
tối cao độ của công việc Mỹ đã làm tại Việt
«Hình như cả
thế giới nổi dậy chống chúng tôi. Không phải chỉ báo chí Mỹ, mà ngay cả đến
Tiếng Nói Hoa Kỳ là cơ quan chính thức của chính quyền Mỹ cũng không ngớt nhả
ra toàn là những lời tố cáo chúng tôi như là những kẻ dở, làm gì cũng là làm
bậy hết. Tưởng như đài BBC trong Đệ Nhị Thế Chiến bỗng nhiên nổi dậy tố cáo Mỹ
và hô hào lật đổ
Ngạc nhiên ư? Những ai biết cụ Diệm đều không ngạc
nhiên về thái độ của Cụ, vì Cụ là một người bất khuất. Điều nên ngạc nhiên là
tại sao một cường quốc bậc nhất như Mỹ lại tỏ ra thất thế như vậy trước một nhà
lãnh đạo của nước Việt
Bởi vì người Mỹ, không phải ai cũng nhắm mắt theo
chính quyền hoặc dư luận báo chí. Có những người đã đích thân đi tìm sự thật về
cụ Diệm, và khi tìm được sự thật, họ cảm thấy không thể không nói lên những gì
họ đã thấy, mặc dầu lời họ nói có thể đi ngược hẳn với trào lưu. Một người, cô
Higgins, đã viết rằng:
«“Tổng Thống
Johnson có lần đã gọi Diệm là Winston Churchill của Đông Nam Á. Việc này làm
cho các kẻ sùng thượng nhà chính khách lỗi lạc của Anh phật ý, và có lẽ cũng
hơi quá.
Nhưng có
điều này rõ rệt là Ngô Đình Diệm nổi bật lên như ngọn tháp cao bên cạnh các kẻ
kế vị, vừa nông cạn vừa xu thời, sau ông, nên không sao đem hai bên so sánh
được. Dầu cố làm lợi gì đi nữa, Diệm đã hiển nhiên tranh đấu theo kiểu Á Đông
mong thực hiện công bằng được bao nhiêu hay bấy nhiêu và cải thiện nếp sống cho
dân chúng. Những kẻ chỉ trích ông, ít ra đều đã công nhận như thế, và tài liệu
cho thấy rằng ông còn làm được nhiều việc trong một thời gian ngắn, hơn bất cứ
một nhà lãnh đạo Đông Nam Á đương thời nào».
Sau khi nhắc lại lời Cụ Diệm tuyên bố với dân chúng
khi Cụ về chấp chánh rằng: «TÔI TIẾN, HÃY
THEO TÔI. TÔI LÙI, HÃY GIẾT TÔI. TÔI CHẾT, HÃY TRẢ THÙ CHO TÔI».
Chúng ta không nên quá chấp trách hạng tầm thường, vì
hạng đó là thành phần của đại đa số nhân loại. Nhưng không phải vì thế mà có
thể quên những kẻ ngoại thường, những bậc vĩ nhân. Cụ Diệm là một bậc vĩ nhân
của thế kỷ hai mươi, nhưng Cụ là cố Tổng Thống của chúng ta. Và chúng ta càng
hãnh diện tưởng niệm Cụ… hôm nay.
NGUYỄN PHƯƠNG
--------------------------------------
No comments:
Post a Comment