Vì
sao Việt cộng không kiện được Tàu cộng?
Câu trả lời mau lẹ là: Vì ba cái quai khớp miệng và một thòng lọng siết
cổ như sau đây:
Ba cái quai khớp miệng:
1/ Lời tuyên bố của Ung Văn Khiêm
Năm 1980, Bộ Ngoại giao Trung Quốc có công bố một tài liệu với tên gọi «Chủ quyền không tranh cãi của Trung Quốc đối
với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa».
Tài liệu này có một tiểu mục với tựa «Sự man trá của chính quyền Việt Nam», trong đó chỉ ra những bằng
chứng cho thấy trước năm 1979, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhiều lần tuyên bố
Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc.
Ngày 15/6/1956, trong khi tiếp đại diện lâm thời của Đại sứ quán Trung
Quốc tại Việt Nam, Lý Chí Dân, Thứ trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa nói với ông rằng: «Theo
dữ liệu của Việt Nam, quần đảo Tây sa và quần đảo Nam Sa về mặt lịch sử là một
phần lãnh thổ của Trung Quốc.»
Bên cạnh đó, Bộ Ngoại giao Trung Quốc cũng chỉ ra một tuyên bố khác vào
năm 1965 của miền Bắc:
«Trong tuyên bố ngày 9/5/1965 về
việc chính phủ Mỹ quy định vùng chiến sự cho lực lượng của họ tại Việt Nam, chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nói … ‘Tổng thống Mỹ Lyndon Johnson đã chỉ định …
một phần lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa trong quần đảo Tây Sa làm “vùng
chiến sự”» của lực lượng vũ trang Hoa Kỳ’.”
Cuốn sách «Cuộc tranh chấp Việt –
Trung về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa» của ông Lưu Văn Lợi do Nhà
xuất bản Công an Nhân dân Hà Nội phát hành năm 1995, xác nhận cả hai tuyên bố
này:
«Việc nói Tây Sa là của Trung Quốc
trong bản tuyên bố của chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong tuyên bố
năm 1965 về việc Mỹ quy định khu vực chiến đấu của quân Mỹ hay câu nói của Thứ
trưởng Ngoại giao Ung Văn Khiêm về Tây sa là có thật,» ông Lợi viết.
( BBC Tiếng Việt – Miền Bắc có tuyên bố Hoàng Sa của Trung Quốc? )
2/ Công hàm Phạm Văn Đồng
Công hàm (Công Ước) năm 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng là công hàm do
Thủ tướng Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Phạm Văn Đồnggửi cho Thủ tướng
Quốc vụ viện Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Chu Ân Laivào ngày 14 tháng 9 năm
1958. Công hàm này được gửi sang Trung Quốc bằng điện báo, sau đó sáng ngày 21
tháng 9 năm 1958, Đại sứ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Trung Quốc Nguyễn Khang
đã trình công hàm này cho Thứ trưởng Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Cơ Bàng Phi. Trong công hàm này Thủ tướng Phạm Văn Đồng thông báo cho Thủ tướng
Chu Ân Lai biết Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa «tán thành» và «tôn trọng»
«bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của
Chính phủ nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận 12 hải lý của
Trung Quốc.»
Chính quyền Trung Quốc cho rằng công hàm Phạm Văn Đồng là một trong
những bằng chứng cho thấy chính quyền Việt Nam đã công nhận chủ quyền của Trung
Quốc đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của CHND Trung Hoa
Bản tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có nội dung như
sau:
Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nay tuyên bố:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa là 12 hải lý.
Ðiều lệ này áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm
phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách
biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần
đảo Bành Hồ, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam
Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
(2) Các đường thẳng nối liền mỗi điểm cơ sở của bờ biển trên đất liền và
các đảo ngoại biên ngoài khơi được xem là các đường cơ sở của lãnh hải dọc theo
đất liền Trung Quốc và các đảo ngoài khơi. Phần biển 12 hải lý tính ra từ các
đường cơ sở là hải phận của Trung Quốc. Phần biển bên trong các đường cơ sở, kể
cả vịnh Bột Hải và eo biển Quỳnh Châu, là vùng nội hải của Trung Quốc. Các đảo
bên trong các đường cơ sở, kể cả đảo Đông Dẫn, đảo Cao Đăng, các đảo Mã Tổ, các
đảo Bạch Khuyển, đảo Điểu Khâu, Ðại và Tiểu Kim Môn, đảo Đại Đảm, đảo Nhị Đảm,
và đảo Đông Đĩnh, là các đảo thuộc nội hải Trung Quốc.
(3) Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa,
tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung
Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển
trong hải phận Trung Quốc đều phải tuyên thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.
(4) Ðiều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Ðài Loanvà các đảo phụ
cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa,quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa,
quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
Khu vực Ðài Loan và Bành Hồ hiện tại vẫn bị lực lượng vũ trang Hoa Kỳxâm
chiếm. Ðây là hành vi phi pháp, xâm phạm sự toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của
nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Ðài Loan và Bành Hồ đang chờ được thu phục.
Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có quyền dùng mọi biện pháp thích ứng để lấy lại
các phần đất này trong tương lai, không cho phép nước ngoài can thiệp.
( Bách khoa toàn thư mở Wikipedia )
3/ Sách giáo khoa và các đồ bản
Phóng viên Trọng Nghĩa đưa tin «Báo
Trung Quốc khai thác sơ hở trong giáo dục của Việt Nam » như sau:
«…tờ Hoàn Cầu Thời báo đã khẳng
định rằng chính Việt Nam đã công nhận là vùng Biển Đông thuộc chủ quyền Trung
Quốc trước năm 1975, vì vào năm 1974, bản đồ và sách vở tại Việt Nam, trong
phần giới thiệu về Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đều nói rằng các hòn đảo ở Biển
Đông đã tạo thành một bức tường lớn bảo vệ lục địa Trung Quốc…
…phần mềm tin học xác định chủ
quyền của Trung Quốc bên trong đường lưỡi bò ở Biển Đông lại được giảng dạy
chính thức trong trường học, trong chương trình tin học và địa lý của lớp 7, và
từ năm 2007 đến nay.
Theo các nguồn tin báo chí trong
nước, phần mềm đó mang tên Earth Explorer, do Trung Quốc sản xuất và được Bộ
giáo dục Việt Nam cho nhập và đưa vào bắt buộc sử dụng trong nhà trường.» (RFI
online ngày 29-12-2013)
Thạc sĩ Đinh Kim Phúc, chuyên gia nghiên cứu độc lập về Biển Đông trả
lời phỏng vấn của phóng viên Thanh Trúc đài RFA ông nói:
«Nếu không có hành động bảo vệ chủ
quyền lãnh thổ của đất nước thì cũng đừng nên có hành động ‘cõng rắn cắn gà
nhà’ như một số quan chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong vụ sách giáo khoa có
in bản đồ đường lưỡi bò.» (RFA online ngày 4-1-2014)
Qua những tài liệu trình bày ở trên và có thể còn nhiều hơn nữa cho thấy
rằng dù chúng ta có những tài liệu lịch sử chứng minh chủ quyền của Tổ Quốc ta
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, mà đảng CSVN và chế độ VNDCCH đã mặc
nhiên công nhận chủ quyền của Trung cộng, ngày nay với lý lẽ của kẻ mạnh chúng
ta làm sao ăn nói đây? Bây giờ muốn hóa giải mọi mắc mứu với Trung cộng về chủ
quyền hai quần đảo này thì chỉ có việc duy nhất là giải tán đảng CSVN và Nhà
nước CHXHCNVN và thành lập chính phủ VNCH đoàn kết dân tộc bình đẳng, bình
quyền, không phân biệt chính kiến, vì chỉ có Việt Nam Cộng Hòa mới có đủ tư
cách pháp nhân làm chủ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa trên thực tế cũng như
về mặt pháp lý và danh chính ngôn thuận khi đưa ra tranh chấp Quốc tế, có như
vậy Trung cộng mới không còn một chứng cớ nào khả dĩ chứng minh được chủ quyền
của chúng ngoài sự ngang ngược đánh chiếm năm 1974.
( Đại Nghĩa – Bán Hoàng Sa-Trường Sa không chỉ cái công hàm )
Ngoài ra, tài liệu của Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn kèm theo một tấm bản
đồ thế giới do Cục Đo đạc và Bản đồ thuộc Phủ Thủ tướng Việt Nam [Dân chủ Cộng
hòa] xuất bản năm 1972 trong đó ghi Tây Sa và Nam Sa theo tên Trung Quốc.
Tài liệu này còn nói các bản đồ của miền Bắc trong các năm 1960 và 1974
cũng ghi rõ Tây Sa và Nam Sa là lãnh thổ của Trung Quốc.
(BBC Tiếng Việt – Miền Bắc có tuyên bố Hoàng Sa của Trung Quốc? )
Cái thòng lọng siết cổ: Mật ước Thành Đô
Trích: «Mấy hôm nay lề dân sôi sục
lên với những bài tin về nội dung thỏa thuận được cho là bán nước Việt cho Tàu
ở Hội nghị Thành Đô của đảng CSVN với CSTQ năm 1990, mà Tân Hoa xã, Hoàn Cầu
Thời báo, Wikileaks… vừa đưa ra, vì có câu: “Và Việt Nam bày tỏ mong muốn sẵn
sàng chấp nhận làm một khu vực tự trị thuộc chính quyền Trung ương tại Bắc
Kinh, như Trung Quốc đã dành cho Nội Mông, Tây Tạng, Quảng Tây…”» ( Phan
Châu Thành – Ai là tác giả đích thực của đề nghị bán nước của CSVN ở Thành Đô
1990? )
Câu chuyện nầy đã loan truyền trên net từ ba năm nay. Càng ngày dư luận
càng chú ý bởi vì kiểm điểm lại những sự kiện diễn tiến từ 1990 đến nay, có
nhiều điều biểu hiện mật ước Thành Đô là có thật.
Bởi vì câu kế tiếp đoạn văn dẫn trên là như vầy:
«Phía Trung quốc đã đồng ý và chấp
nhận đề nghị nói trên, cho thời hạn phía Việt nam trong thời hạn 30 năm
(1990-2020) để Đảng CSVN giải quyết các bước tiến hành cần thiết cho việc gia
nhập đại gia đình các dân tộc Trung quốc».
Để «giải quyết các bước tiến hành
cần thiết» cho việc gia nhập đại gia đình các dân tộc tàu khựa, bọn trùm sò
Ba Đình đã cúc cung thực hiện các việc trọng yếu kể sau:
-Năm 1999, ký hiệp ước biên giới, dâng cho tàu cộng một giải đất 900Km2
bằng diện tích của tỉnh Thái Bình + ½ thác Bản Giốc + trọn ải Nam Quan lịch sử.
-Năm 2000, ký hiệp ước vịnh Bắc Bộ, nhượng cho chệt 1/3 vịnh Bắc việt và
bãi Tục Lãm.
-Năm 2013, ký 10 văn kiện hợp tác toàn diện, giao quyền điều hành trọn
bộ nhà nước việt cộng cho Bắc Kinh.
-Năm 2014, ký thỏa ước «Kế hoạch
Hai hành lang – Một vành đai», giao quyền khai thác kinh tế 6 tỉnh biên
giới và Điện Biên cho chệt khai thác, kể cả lập hai hành lang chiến lược Lào
Kay – Hà Nội – Hải Phòng và Móng Cáy – Hà Nội.
Kể trên là các hiệp ước đẳng cấp quốc gia.
Sau đây là các khế ước bán lẻ từng vùng đất chiến lược quan yếu:
1/ Khế ước khai quặng mỏ bauxite, nhượng cho hàng vạn «đặc công» chệt kể cả tù cải tạo vong mạng trấn giữ nóc nhà Tây nguyên,
khống chế toàn cỏi Đông Dương.
2/ Khế ước khai thác rừng đầu nguồn cho phép dân quân tàu cộng dưới dạng
thợ làm rừng trấn đóng cáccao điểm trọng yếu trên biên giới phía Bắc.
3/ Các khế ước cho nhà thầu chệt thi công các công trình trọng điểm suốt
vùng duyên hải từ Móng Cáy tới mủi Cà Mau.
4/ Cho phép tàu khựa lập các khu phố chệt chinatown khắp nơi trên cả
nước, tiêu biểu “ hoành tráng “ như Đông đô Đại phố Bình Dương.
5/ Làm ngơ cho chú chệt vào lấy vợ, làm ăn sinh sống tự do như trên đất
nhà của nó! Tiêu biểu như thị xã Vũng Tàu, có 3 ngàn chú chệt lấy vợ Việt sinh
sống thoải mái như công dân xã nghĩa hạng nhất bên tàu.
Các sự kiện kể trên cho thấy, Tàu cộng đã lập thế khống chế nước việt
cộng từ kinh tế, chánh trị đến an ninh, xã hội, chỉ còn chờ ngày chánh thức bàn
giao lãnh thổ.
Các bước tiến hành cần thiết được thực hành lộ liễu hết mức như vầy:
Năm 2011, nhân khi có 11 cuộc biểu tình yêu nước chống tàu xâm lăng,
trên truyền hình, phía sau xướng ngôn viên, trương là cờ tàu cộng với 6 sao lồ
lộ.
Cuối năm 2012, nhân khi phó vương Tập Cận Bình tuần du An nam, bọn nô
tài Ba Đình xua thiếu nhi Việt Nam
phất cờ chệt cộng 6 sao tiếp đón chệt Tập.
Hồi tháng 5, 2014 nhân vụ giàn
khoan chệt xâm phạm thềm lục địa Việt Nam, chệt khâm sai Dương Khiết Trì giá
lâm, mắng mỏ bọn tôi tớ Ba Đình: “Các đứa con đi hoang hãy mau quay trở về nhà!”»
Tệ mạt, mất thể thống hơn hết là vừa rồi, tên nhí Hồ Xuân Hoa, bí thư
tỉnh ủy Quảng Đông đi thanh sát An nam đô hộ phủ, nghênh ngang ra lệnh cho cái
gọi là bộ ngoại giao việt cộng, tên thứ trưởng Hồ Xuân Sơn phải ký văn thư gởi
cho các bộ và tỉnh thành vc yêu cầu thi hành 16 công tác do tỉnh Quảng Đông
chệt giao phó!
Hiện tại, Nước Việt chánh thức chưa mất, nhưng trên thực tế nằm trong
tay tàu khựa thao túng.
Vì vậy cho nên, vừa rồi «thủ má
dzề Fuc» gặp mặt thủ chệt Lý Khắc
Cường bên lề Hội nghị Cao cấp Âu – Á vẫn chỉ biết hót như vẹt câu thỏa thuận « song phương» trên tinh thần chủ tớ «16 vàng khè – 4 tốt làm» :
Thông cáo của Bộ Ngoại giao Việt Nam tối 14/7 cho biết tại cuộc gặp với
Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường ở Ulanbator, Mông Cổ, Thủ tướng Nguyễn Xuân
Phúc đề nghị hai bên cùng thực hiện nghiêm túc các thỏa thuận và nhận thức
chung của Lãnh đạo cấp cao, trong đó có «Thỏa
thuận về những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải quyết vấn đề trên biển Việt Nam –
Trung Quốc» do hai Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Hồ Cẩm Đào đã thống nhất
tháng 10/2011 nhằm thúc đẩy các cơ chế đàm phán trên biển sớm có tiến triển
thực chất, đồng thời kiểm soát tốt bất đồng trên biển, không làm phức tạp tình
hình, thực hiện hiệu quả, toàn diện «Tuyên
bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông» (DOC) và sớm đạt được «Bộ quy tắc ứng xử ở Biển Đông» (COC),
góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực.
Cho nên có thể khẳng định rằng: Chừng nào Đất nước còn dưới quyền cai
trị của bọn hậu duệ cỏ đuôi chó hồ tinh chín đuôi hồ bác cụ thì họa mất nước,
diệt tộc là thấy rõ.
Hiện tại, bọn tôi tớ chệt Ba Đình chỉ biết lay quay, xoay trở để hợp
thức hóa việc xáp nhập Việt Nam vào đại hán chệt cách nào cho êm thắm mà không
bị toàn dân phẫn uất vùng lên diệt trừ.
Đã có một giai thoại về việc Trọng lú đề xuất Việt Nam gia nhập
Liên bang Tàu khựa:
Nguyễn Phú Trọng vừa tuyên bố… trong buổi tiếp tân…
«Tôi đã nhiều lần giải trình rằng
cơ chế Liên Bang XHCN Trung quốc là một mô hình hiện đại, đã tỏ ra thành công ở
nhiều nơi, tuyệt vời. Ví dụ như Liên Âu (EU), Mỹ (USA), Úc, Canada .
Nay, Đảng và Nhà nước ta đang phấn
đấu đề xuất và tham gia Liên Bang XHCN Trung quốc (United
States of Scocialist China – USSC).
Trong khuôn khổ cơ chế này, hai
Đảng Cộng sản sẽ hoà nhập hài hoà; vấn đề Nam sa, Tây sa được vĩnh viễn giải
quyết dứt khoát trong tình hữu nghị Trung Việt.
Đây cũng là môt mặt của quá trình
triển khai phạm trù triết học: bảo vệ Đảng, bảo vệ cơ chế và giúp chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam tiến lên với thế giới giàu mạnh, đẹp đẽ bên cạnh đại cường Trung
quốc.»
Trước sự thể tang thương như thế, có ông tác giả St.
hí hước một đường binh:
«Các Ông Chỉ Có Một ĐƯỜNG BINH…»
Sau hai vòng đàm phán không chính thức với mục đích nếu không đạt được
Hiệp ước Liên minh Quân sự với Hoa Kỳ thì ít ra cũng được phép mua vũ khí từ
Mỹ, Đại diện CSVN đành về nước tay không với gói quà 18 triệu đô viện trợ cho
Cảnh sát Biển.
Hôm trước khi ra sân bay về nước, Đại diện CSVN có ngõ lời mời người đối
tác phía Mỹ một buổi cơm tối thân mật tại một nhà hàng Tàu trong vùng Virginia.
Nhà hàng này nổi tiếng với món Vịt Bắc Kinh và có rất nhiều Tổng thống Mỹ ghé
qua ăn và chụp hình lưu niệm.
Đại diện CSVN vào thẳng vấn đề:
– Hai vòng đàm phán qua ông đã kết luận chúng tôi không thể có Liên minh
Quân sự với Mỹ vì Trung Quốc sẽ cản trở. Chúng tôi không có đủ ngân sách để mua
vũ khí tự túc. Xem ra giải pháp quân sự lúc này với Trung Quốc không khả thi.
Thế thì giải pháp pháp lý, ông nghĩ có khả thi hay không? Ý tôi muốn nói rằng
đưa Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế để kiện như Philipines đang làm thì có khả thi
không?
– Cơ hội rất ít, thưa ông. Và các ông nên cân nhắc cẩn thận về các bằng
chứng trình trước tòa. Vì nếu tòa phán quyết các ông THUA thì con đường tương
lại còn gian nan hơn nữa. Phán quyết mới nhất của tòa cấp quốc tế xem ra là bản
án tử hình cho các ông tại Biển Đông. Khi ấy các ông bị đẩy ra bên lề mọi tranh
chấp sau này của các nước trong vùng đối với Biển Đông.
– Nhưng nếu chúng tôi liên kết kiện với Phi hay các nước khác?
– Tôi cũng nhận thấy các ông đang có hướng này. Khi Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng ghé thăm Phi hôm qua. Nhưng khả năng Phi liên kết với ông trong vụ kiện
rất thấp vì khi Phi kiện các ông không ủng hộ. Bây giờ các ông tham gia với
BẰNG CHỨNG BẤT LỢI hơn thì dĩ nhiên Phi khó chấp nhận.
– Chúng tôi có đầy đủ các bằng chứng THUẬN LỢI từ thời Thực dân Pháp đến
Việt Nam Cộng Hòa rằng Việt Nam
có đã xác định chủ quyền trên hai quần đảo này liên tục cả trăm năm cơ mà. Sao
ông lại nói BẤT LỢI?
– Các ông đang trưng dẫn bằng chứng của những chế độ đã qua mà không hề
có bằng chứng xác nhận chủ quyền cấp quốc tế từ chế độ của các ông. Xem ra khó
thuyết phục tòa án. Các ông có thể trưng dẫn hình ảnh thời thơ ấu trong một căn
nhà, những câu chuyện tuổi thơ ở đó, trong khi người ta trình ra GIẤY BÁN NHÀ
của bố các ông, thì dĩ nhiên tòa án không thể cho các ông vào nhà được.
– Ý ông muốn nói đến Công Hàm Phạm văn Đồng năm 1958?
– Đúng. Các ông biết Công Hàm này đã lâu nhưng có nhiều bằng chứng cho
thấy các ông cố NÉ TRÁNH nó. Trong khi ngược lại gần đây Trung Quốc lại trưng
công hàm này ra trước quốc tế. Xem ra họ có nắm đàng cán về vụ này!
Đại diện CSVN cười sặc sụa:
– Công hàm đó KHÔNG CÓ HIỆU LỰC ông ơi. Phạm văn Đồng dù có nói thẳng là
«giao Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung
Quốc» thì cũng không có hiệu lực. Đó chỉ là ĐÒN NGOẠI GIAO KHÔN NGOAN của
chúng tôi để nhận viện trợ từ Trung Quốc mà đánh Mỹ. Năm 1958 chúng tôi không
có chủ quyền ở Hoàng Sa, Trường Sa.
………..
– Ngôn từ trong công hàm này vào năm 1958 rất là KHÔN NGOAN. Vì các ông
BÁN VỊT TRỜI mà thu được gần cả tỉ đô la viện trợ của Trung Quốc cho một món
hàng tương lai không biết có chiếm được hay không. Ví như một người muốn đi
cướp nhà người khác không có súng, không có tiền, đi hứa với thằng cướp khác: «Khi nào tao cướp được nhà đó thì tao tôn
trọng quyền của mày được trồng rau ở sân sau». Khi cướp được thì phải thực
hiện lời hứa đó.
Đại diện CSVN mỉa mai:
– Nếu «khôn lâu» như ông trong
trường hợp đã lỡ ký LỜI HỨA đó thì ông phải làm sao?
– Nếu tôi là các ông mà tôi bắt buộc phải viết công hàm đó để có viện
trợ thì tôi vẫn viết như thế …
– Huề tiền!
– Tôi vẫn nhận gần cả tỉ đô la để đánh Hoa Kỳ và kéo nó đến bàn Hội Nghị
Paris năm 1973 để nó phải rút quân …
Đại diện CSVN phá liên cười:
– Ông khôi hài quá, thế mà lại dạy «ngoại
luộc trứng»
Đại diện Mỹ vẫn từ tốn nói tiếp:
– CSVN ký công hàm Phạm văn Đồng là khôn liền ngay năm 1958, nhưng ai đó
quyết định xé hiệp định Paris chiếm Miền Nam năm 1975 là
ĐẠI NGU để Trung Quốc nó ị trước.
Chiếm Miền Nam là biến công hàm đó thành hiện thực và đối diện gần 1 tỉ
đô la nợ Trung Quốc, là từ bỏ 4 đến 6 tỉ đô la bồi thường chiến tranh của Hoa
Kỳ. Việt Nam bỏ cơ hội thành một nước Đức và nước Nhật sau thế chiến thứ hai.
Đại diện CSVN hết kiên nhẫn ngắt lời:
– Ông có khiếu kể chuyện cổ tích. Xin phép trở lại trọng tâm. Thế thì có
giải pháp nào cho chúng tôi trong bế tắc này không?
Đại diện Mỹ nhìn quanh rồi pha trò:
– Có tình báo Hoa Nam Cục ở đây không?
Rồi, ông nói tiếp:
– Theo tôi thì các ông phải tuân thủ công hàm Phạm văn Đồng vì 1974 các
ông đã tuân thủ thì hôm nay phải tuân thủ để yên cho Trung Quốc đặt giàn khoan.
– Không còn cách nào hết sao?
– Chỉ còn cách mà tôi đã nói với các ông hôm đầu tiên.
– Cách gì ông nhắc lại đi.
– Một cách vô cùng giản dị, không cần viện trợ của Hoa Kỳ, chẳng cần ủng
hộ của thế giới, mà lại đoàn kết, hòa hợp hòa giải với mọi thành phần người
Việt trong và ngoài nước và quan trọng là vô hiệu hóa công hàm Phạm văn Đồng.
– Làm cách nào?
– Ngay ngày mai …Đổi lại tên nước thành Việt Nam Cộng Hòa. Lấy lại tên
Sài Gòn và dời thủ đô về đó. Lấy CỜ VÀNG làm quốc kỳ. Có như thế thì trước diễn
đàn thế giới, VNCH chỉ VẮNG MẶT 39 năm chứ KHÔNG CHẾT. Công hàm Phạm văn Đồng
chỉ là tờ «giấy lộn» vì tên cướp có
vô nhà nhưng chủ nhà về lại và đã đuổi cổ nó ra. Trời Việt lại … HỪNG ĐÔNG.
Đại diện CSVN vuốt mồ hôi lạnh trên trán:
– Chỉ đơn giản thế thôi sao?
Vịt Bắc Kinh trên bàn đã NGUỘI LẠNH, lớp mỡ trắng đã bắt đầu đóng viền
quanh dĩa vì không ai còn đoái hoài đến nó.
Đại diện Mỹ vỗ vai đại diện CSVN nói một câu tiếng Anh:
– All road lead to Rome
(Đường nào cũng về La Mã). Hãy trả cho Ceazar những gì của Ceazar. Các ông chỉ
có một ĐƯỜNG BINH. Cầm bài chi lâu cho nó … ƯỚT.
St.
Câu chuyện giả tưởng, hí hước kể trên tuy vậy đánh trúng ngay vào yếu
điểm của việc đòi lại chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa.
Chỉ khi nào toàn dân vùng dậy triệt hạ chế độ gọi là công hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, hậu thân của chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa mà đại diện là
Phạm Văn Đồng kẻ đã ký cái công hàm bán Hoàng Sa – Trường Sa cho chệt để dựng
lại Việt Nam Cộng Hòa, pháp nhân có chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa và đã thực
thi chủ quyền liên tục cho tới khi bị chệt cộng đánh chiếm Hoàng Sa năm 1974 và
Gạc Ma năm 1988.
Chánh phủ ( Đệ Tam ) Việt Nam Cộng Hòa, nhân danh Quốc dân Việt Nam
mới có đủ thẩm quyèn pháp lý chẳng những kiện trung cộng ra Tòa Án Trọng Tài
Quốc tế mà còn kiện chệt cộng ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.
Đó là lý do vì sao mà toàn dân Việt phải can trường, khẩn cấp vùng lên
đạp đổ xích xiềng nô lệ Việt cộng để tự cứu mình, cứu nước.
Nguyễn Nhơn
Vì
sao Việt nam không kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế?
Trong đợt xua tàu hải cảnh cùng tàu thăm dò địa chất HD8 sang Việt Nam hồi năm ngoái, Trung Quốc liên tục bao vây
bãi Tư Chính gây áp lực với Việt Nam . Tướng Lê Mã Lương, trong một
Diễn Đàn thảo luận về tình hình Biển Đông do một số tổ chức và Nhân sĩ mở ra
tại Hà Nội, Ông đã đến tuyên bố rằng sẽ kéo Anh em tới hỏi tội Bộ Ngoại giao
nếu Việt Nam để mất bãi Tư Chính.
Trong lúc nêu ý kiến, Tướng
Lương có nói rằng ông đang đi dự một hội nghị khác do Phó thủ tướng Trịnh Đình
Dũng cùng bộ ngoại giao tổ chức, có báo cáo tình hình biển đông, Tướng Lương
đặt vài câu hỏi, trong đó ông hỏi Việt Nam có Kiện Trung Quốc ra toà án quốc tế
không? Được bộ ngoại giao trả lời thẳng thắn rằng Việt Nam sẽ không
kiện Trung Quốc ra toà quốc tế.
Trong thời gian mấy năm trở lại đây, Trung Quốc đang có những hành động
ngang nhiên xây dựng trái phép các công trình, tôn tạo các bãi đá hay xây dựng
căn cứ ở Biển Đông, thậm chí Trung Quốc mới thành lập 2 quận Tây Sa-Nam Sa, rồi
đặt tên các đảo các thực thể ở Biển Đông một cách trắng trợn, nhưng các lãnh
đạo Việt Nam gần như im lặng, bộ ngoại giao chỉ lên tiếng chiếu lệ, gần như
chẳng lối thoát nào. Nói thẳng ra, Trung Quốc đã xâm chiếm trọn Biển đông nhưng
Việt Nam
ngoài phản đối bằng mồm ra chẳng còn làm gì khác.
Phải chăng chỉ kiện Trung Quốc ra toà Trọng tài như Philipines đã từng
thắng kiện thì mới mở được một chương mới cho Việt Nam trong việc bảo vệ chủ
quyền, còn không, Trung Quốc cứ lấn chiếm, cứ xây dựng cứ tôn tạo mặc kệ ai nói
thì nói, rồi làm được gì?
Vì sao không kiện Trung Quốc?
Nhiều người luôn hỏi rằng tại sao Việt Nam không kện ra Toà trọng tài?
Và đây là câu trả lời.
Trong Công hàm mới nhất của Trung Quốc gửi lên LHQ về việc phản đối Công
Hàm của Việt Nam
gửi lên trước đó, Trung Quốc đã dùng Công hàm do Phạm Văn Đồng ký ngày
14.9.1958 như là một bằng chứng cho lập luận của mình.
«Chủ quyền của Trung Hoa đối với
Trường Sa và Hoàng Sa được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi. Chính phủ Việt
Nam
cũng đã công nhận nó một cách rõ ràng. Vào ngày 4 tháng 9 năm 1958, chính phủ
Trung Hoa ban hành Tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về lãnh
hải của Trung Hoa, tuyên bố một lãnh hải rộng mười hai hải lý, và quy định
rằng, Quy định này áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của Cộng hòa Nhân dân Trung
Hoa bao gồm quần đảo Hoa Đông, Hoàng Sa, Trung Xa (bãi cạn Scarborough của
Philippines), Trường Sa và tất cả các đảo khác thuộc Trung Hoa.
Vào ngày 14 tháng 9 năm 1958, Thủ
tướng Phạm Văn Đồng của Việt Nam đã gửi công hàm ngoại giao tới Chu Ân Lai, Thủ
tướng Hội đồng Nhà nước Trung Hoa, tuyên bố long trọng rằng chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa công nhận và ủng hộ tuyên bố của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa về quyết định liên quan đến lãnh hải của Trung Quốc được đưa ra vào
ngày 4 tháng 9 năm 1958 và rằng chính phủ của Cộng hòa Dân chủ Việt Nam tôn
trọng quyết định này».
Chính công hàm Phạm Văn Đồng là một văn bản, mặc dù nó không có giá trị
pháp lý mà Trung Quốc luôn sử dụng để khẳng định Nhà nước CHXHCNVN đã công nhận
chủ quyền Trung Quốc trên 2 quần đảo Hoàng sa- Trường Sa. Và chính vì nỗi ô
nhục của đảng cộng sản bán nước ấy nên không bao giờ Việt Nam có thể kiện Trung
Quốc ra toà quốc tế, cũng như Việt Nam chọn cách lên tiếng chiếu lệ, không thực
tâm bảo vệ chủ quyền, Anh công nhận của nhà người ta giờ mặt mũi nào mà đòi lại
nữa? Trừ khi nhà cầm quyền cs không còn tồn tại nữa.
Bán nước để đổi lấy sự hậu thuẫn của Bắc Kinh trong cam kết cướp Miền Nam
cho bằng được. Đảng cộng sản mãi mãi ghi tên vào thiên cổ vì hành động bán nước
này.
Phạm Minh Vũ
Vâng chỉ còn cách VNCH trỏe lại...
ReplyDelete