Không
thể không nói & Câu chuyện về chữ thời
Trần Thanh Vân
I. Không thể không nói
KTS Trần Thanh Vân là người có đến 55 năm «duyên nợ» với Trung Quốc. Không ngờ chị lại có quê ngoại vốn là quê
nội của tôi và trời xui đất khiến thế nào mà ngày đầu kháng chiến toàn quốc,
riêng bố lên ATK còn mẹ con cô bé Vân lại dắt díu nhau chạy tuốt về Đức Thọ Hà
Tĩnh để hưởng cái không khí «gạo trắng
nước trong» thơ mộng những năm đầu và rước lấy tai họa vào mấy năm sau đó,
khi Cải cách ruộng đất đợt 5, đợt cuối cùng và cũng là sai lầm kinh hoàng nhất,
nổ ra ở đây. Cô bé Vân nhỏ hơn tôi ít nhất cũng đến 5 tuổi và được bố vội vã
trở về đưa ra Việt Bắc ngay nên không thể biết gì thêm về những chuyện «long trời lở đất» như tôi, nhưng cũng đã
kịp chứng kiến cảnh ông ngoại là một thầy lang hiền lành có uy tín trong vùng
và người mẹ, từ tuổi còn rất trẻ đã biến thành tiểu thư Hà Nội nên khi trở về
lại quê cha là tất tả lo kêu gọi chị em thành lập tổ may áo rét cho binh sĩ, cả
hai người, ông và mẹ đều bị đưa ra đấu trường (trong Phát động Giảm tô vào
1953, đấu trường cũng đã ghê gớm, dữ dằn nhưng chưa khủng khiếp bằng bước sau,
năm 1955, được gọi đúng tên CCRĐ). Những lởn vởn trong đầu về bàn tay can thiệp
của đội quân do Bác Mao phái sang giúp chúng ta, gây ra chết chóc và làm tanh
bành đất nước, bắt đầu dấy lên trong chị từ những ngày ấy.
Chị Vân cũng có cả những trải nghiệm về những ngày tháng «hữu nghị Việt-Trung-Xô» (tuy chị nhớ
nhầm diễn ra sau CCRĐ, kỳ thực nó bắt đầu trước cơn bão ấy khá lâu và kéo dài
mãi đến sau này) mà về phần tôi, không bị những cuộc đại liên hoan nhảy múa «xồn la xồn» rộn rã – diễn ra ở bất kỳ
nơi đâu ta sinh sống – mê hoặc, nhưng thú thực, một ít bài hát thuở ấy còn
quyến rũ tôi đến nay về cái giai điệu du dương của chúng, nhất là về cái sức
thôi thúc tuổi trẻ đắm vào giấc mơ chiến đấu cho một thế giới đại đồng: «Ai nghe chăng tiếng kèn trên Leningrade / Ai
nghe chăng tiếng hát giữa Trung Hoa / Hà Nội ơi ngày chiến thắng không xa và /
Khi lúa đơm hoa cờ / Tiến quân ta về Thủ đô… / Ai nghe chăng xích xiềng đang
tung nơi nơi / Và ngày mai khi súng lặng nơi chiến trường / Là lúc ta lên đường
đập tan sóng Thái Bình Dương…».
Chị Thanh Vân may mắn hơn tôi được sang Thượng Hải theo học ngành kiến
trúc từ 1960 đến 1966, tận mắt nhìn thấy bức tranh náo loạn của Đại cách mạng
văn hóa Trung Quốc làm cho hàng mấy trăm triệu con người trở nên hung hăng điên
dại. Còn chúng tôi, vào Đại học Tổng hợp Hà Nội từ 1956, chúng tôi cũng đã nhận
được tiếng dội của phong trào Đại tiến vọt từ Trung Quốc dội đến, đã cùng nhau
đi thu thập chảo gang và đồ sắt phế liệu để chuẩn bị mở lò luyện thép trong
trường, may mà cụ Hồ đã kịp có ý kiến để những chuyện đó không xẩy ra ở Việt
Nam.
Trong khóa học Ngữ văn đầu tiên sau hòa bình của mình, bên cạnh các
chuyên gia Liên Xô, chúng tôi lại cũng có may mắn được học với những chuyên gia
lỗi lạc về văn học cổ điển Trung Quốc như GS Trương Trọng Thuần, từ Đại học Bắc
Kinh cử sang, tính tình thật đôn hậu, vừa uyên thâm vừa vẽ giỏi, có thể vẽ minh
họa thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị bằng phấn ngay trên bảng. Và theo các bạn
cùng khóa của tôi sau ngày tốt nghiệp ít năm được chọn sang làm tu nghiệp sinh
ở Trung Quốc kể lại, thì trong Đại cách mạng văn hóa Trung Quốc, một đêm kia,
thầy Trương Trọng Thuần đã đánh bạo lần mò đến ký túc xá của đoàn học sinh Việt
Nam gõ cửa rất gấp, đưa ra 2 lá thư, với giọng nghẹn trong nước mắt, nhờ học
trò cũ giúp ông chuyển về nước, nhằm xin với «bên nhà» cho được sang lánh nạn ở Việt Nam. Tiếc thay thư gửi về mà
không có hồi âm khiến thầy mong đỏ cả mắt, rồi chuyện gì xẩy ra đã xẩy ra:
khoảng vài tuần sau cái đêm liều mạng đến gõ cửa các học trò Việt Nam , thầy đã
biến mất tăm dạng, đến nay không ai biết ở đâu…
Phần thứ hai của bài viết của KTS Trần Thanh Vân là một kiến giải có
tính chất dự báo về việc áp dụng lý thuyết phong thủy để nhìn xem hình thế địa
mạch trái đất như một sợi dây liên thông vô hình không dứt, trong đó Việt Nam
là một điểm nhấn quan trọng. Tôi không dám lạm bình vào những điều huyền vi
này, bởi phong thủy là một môn học đòi hỏi phải có sự kết hợp xét đoán nhiều
mặt, tinh tường, về những gì đã hiện hình trên thế núi, hình sông mạch đất, và
cả những gì thuộc phạm vi tâm linh chứ chưa hiện rõ để ta nhìn vào là thấy ra
ngay. Tôi tuyệt nhiên không biết một chút sơ đẳng về cái học uyên áo kia trong
khi chị đã có đến 19 năm đào sâu về nó. Bởi vậy, chỉ xin được giới thiệu với
bạn đọc kiến giải của chị như những giả thuyết không chỉ hấp dẫn về khả năng
liên tưởng sâu xa mà phía sau nó còn là một lời cảnh báo nghiêm khắc với những
ai có quyền, có tiền, có đủ thứ, chỉ duy không có trái tim hoặc trái tim đã bị
chia ra nhiều phần, phần lớn nhất buộc phải dâng cho kẻ khác, vì thế mắt mở to
mà không hề nhìn thấy mọi hiểm họa đang rình rập tứ phía đối với giải đất cong
cong hình chữ S ruột thịt của 85 triệu con dân Việt. Và đây là lời cảnh báo chị
muốn đưa ra: hãy kịp thời tỉnh lại đi những ai đang mê muội trong giàu sang và
quyền lực, vì bàn chân lũ cáo ranh mãnh đã mon men đặt lên một vài trong các tử
huyệt của đất nước.
Nguyễn Huệ Chi
PHẦN I - Tôi biết gì về Trung Quốc?
Lâu nay mọi người vẫn nghĩ rằng tôi là một Kiến trúc sư cảnh quan có hiểu chút ít về phong thủy Thăng Long, âu cũng là chuyện bình thường, cho nên những vấn đề gì liên quan đến phong thủy của Kinh đô Thăng Long xưa và Hà Nội mở rộng ngày nay thì họ hay hỏi tôi, ngoài ra tôi không biết điều gì khác. Tôi cũng tự nghĩ như vậy, nên không muốn chen vào những lĩnh vực nhạy cảm mà tôi không thông thạo như kinh tế, xã hội, đặc biệt là các vấn đề an ninh, chính trị và thời sự quốc tế!
Cách đây vài tháng, khi xây dựng chương mục Địa linh của Chương trình
văn hóa 1000 năm Thăng Long, một nhóm nghiên cứu của Ban khoa giáo Đài truyền
hình trung ương đến gặp tôi để lấy tài liệu về Địa mạch và Hồn cốt Thăng Long.
Giữa chừng câu chuyện, họ hỏi tôi «Chị
nghiên cứu đề tài này lâu chưa?» Tôi lưỡng lự giây lát, rồi trả lời họ: «Khoảng chừng đã 55 năm»
– «Cái gì? 55 năm?»
– «Vâng! từ ngày còn là con bé con».
Thế rồi tôi kể cho họ nghe những câu chuyện khiến tôi phải chứng kiến,
phải tìm hiểu từ ngày tôi còn nhỏ. Vào đại học, tôi làm đơn thi Bách khoa vô
tuyến điện hoặc Tổng hợp Lý toán, nhưng lại bị phân công theo ngành Kiến trúc.
Sau này, tôi học phong thủy cho biết để hành nghề kiến trúc sư, càng ngày tôi
càng ý thức được đó là cái nghiệp đời người của tôi. Vâng, đúng là nghiệp đời
người đặt tôi vào tình huống liên tiếp phải va chạm với những sự thật và tôi
không thể không theo đuổi đến cùng sự thật đó. Xin nhắc lại rằng kiến thức của
tôi bắt nguồn từ những sự thật, từ những điều mắt thấy tai nghe, không phải từ
lý thuyết.
1. Sự thật và trải nghiệm
Tôi xin mở đầu câu chuyện nghiêm túc này bằng mối «quan hệ» của tôi với vấn đề Trung Quốc mà tôi sắp kể ra, đó là lý
do thôi thúc tôi phải đi sâu tìm hiểu bản chất của mối quan hệ hữu nghị Việt Nam -
Trung Hoa này. Có thể có những nhà nghiên cứu chiến lược lâu năm có cách nhìn
khác và chưa công nhận những điều tôi sắp nói, nhưng với trách nhiệm của một
công dân, một người con đất Việt, tôi như là một nhân chứng có thể khẳng định
rằng ít ai có cơ hội để «hiểu» Trung
Quốc hơn tôi. Cho nên, dù đã có thời gian dài tôi tránh nhắc tới những chuyện
đó, nhưng càng tránh tôi càng thấy phải nói ra hôm nay để mọi người cùng biết.
Đúng vậy, tôi không chỉ từng có kỷ niệm 5 năm du học ở Thượng Hải, cái
thời mọi người hay hát «Việt Nam – Trung
Hoa núi liền núi, sông liền sông / Chung một Biển Đông, thắm tình hữu nghị…»;
trước đó tôi đã có hai kỷ niệm sâu đậm và rất hãi hùng liên quan đến Trung
Quốc.
Kỷ niệm thứ nhất: Cải cách ruộng
đất năm 1953
Ngày ấy tôi còn nhỏ lắm. Vùng quê ngoại Đức Thọ Hà Tĩnh, nơi chúng tôi
theo mẹ tản cư về đã hết yên ổn của vùng tự do thời kháng chiến và bắt đầu chịu
cảnh máy bay bắn phá. Nhưng, cuộc «bắn
phá» tàn khốc hơn lại chính là những cuộc đấu tố địa chủ và Việt gian phản
động trong mọi làng xã ở Hà Tĩnh lúc bấy giờ. Ông ngoại tôi là một thầy thuốc
Đông y giỏi có tiếng, chuyên nghề xem mạch bốc thuốc và ông tôi đã cứu sống
nhiều người nên được dân trong vùng nể trọng gọi bằng thầy. Tiền bạc chắc chẳng
có nhiều, nhưng mùa nào thức nấy, trong nhà ông ngoại tôi không bao giờ thiếu
của ngon vật lạ do gia đình bệnh nhân mang đến tạ ơn cứu mạng như rổ lạc đầu
mùa, cân đỗ xanh, thúng gạo nếp, mớ khoai lang, nải chuối chín, có khi còn có
cả con gà sống thiến hay chục trứng tươi… Nhà chỉ có hơn một mẫu ruộng, ông
ngoại tôi giao hẳn cho mấy người bà con trong họ trồng cấy và không thu tô,
nhưng trong CCRĐ ông tôi vẫn bị quy là địa chủ, mà là địa chủ cường hào.
Mẹ tôi nguyên gốc là cô gái làng dệt lụa Tùng Ảnh ở Đức Thọ, đã theo ông
ngoại ra sinh sống ở Hà Nội nhiều năm và có cửa hàng bán tơ lụa ở Hà Nội. Đêm
toàn quốc kháng chiến 19/12/1946, mẹ tôi đã bỏ lại hết nhà cửa và tài sản, đưa
chúng tôi tản cư về Đức Thọ Hà Tĩnh, vận động nhiều nữ thanh niên bỏ nghề dệt
lụa, xây dựng một nghề mới là xe sợi, nhuộm sợi và đan áo rét cho bộ đội. Cặm
cụi làm việc đó, mẹ tôi vừa nuôi sống cho gia đình và bản thân, vừa đóng góp
tích cực cho kháng chiến. Tôi còn nhớ bài hát «Áo mùa đông» của nhạc sĩ Đỗ Nhuận sáng tác vào những ngày đó: «Gió bấc heo may / xào xạc rung cây lá lá bay
/ một mùa đông bao người đan áo…» chính là nói về công việc của mẹ tôi và
các chị, các cô trong Hội phụ nữ kháng chiến cứu quốc. Vào những ngày đó, ở
vùng tự do nghèo nàn Thanh Nghệ Tĩnh làm gì có len để đan áo, sáng kiến xe sợi
bông, nhuộm sợi thành các màu xanh, màu nâu, màu cỏ úa rồi đan thành áo gửi ra
chiến trường, đã được ca ngợi như một chiến công lớn.
Nhưng trong CCRĐ thì công cũng thành tội, có một người bạn thân hồi nhỏ
của mẹ tôi là Bí thư chi bộ xã đã treo cổ tự tử vì bị truy bức quá, lập tức mẹ
tôi bị gán tội là trùm Quốc dân đảng đã giết ông Bí thư đó để bịt đầu mối hoạt
động gián điệp và mẹ tôi liền bị lôi ra đấu tố. Cay đắng hơn cả là người được
Đội cải cách bôì dưỡng để đứng lên đấu tổ mẹ tôi hăng nhất lại là một bà bạn
cũng tản cư từ thành phố về và đã được mẹ tôi đưa vào tổ đan áo binh sĩ.
Cha tôi đang ở vùng ATK của chiến khu Việt Bắc nghe tin đó thì hoảng
hốt, vội vào Hà Tĩnh đón chị em tôi lên Việt Bắc để lánh nạn. Vừa đặt chân đến
Chợ Chu – Định Hóa – Thái Nguyên thì tôi được nghe câu chuyện họ vừa xử bắn bà
Nguyễn Thị Năm ở thôn Đồng Bẩm huyện Đại Từ. Một vụ xử bắn oan nghiệt đối với
một người phụ nữ từng có công lớn mà đến nay mọi người vẫn còn nhớ.
Trong các xó xỉnh của Việt Bắc hôì đó, người ta bàn tán về hoạt động của
các chuyên gia Trung Quốc sang giúp ta kinh nghiệm phát động quần chúng đấu
tranh giảm tô và đòi ruộng đất về chia cho dân cày mà Việt Bắc và vùng tự do Liên
khu 4 được chọn làm điển hình.
Sau này, khi ông ngoại tôi đã mất rồi, đại gia đình có dịp gặp nhau ôn
lại chuyện cũ, mọi người đều bảo nhau hãy nén lòng quên nỗi đau buồn đó đi.
Kỷ niệm thứ hai: Trời phạt
Chưa hết hoang mang về chuyện bức hại chém giết lẫn nhau trong CCRĐ, thì
chúng tôi được ném vào «Trận đồ bát quái»
của tháng hữu nghị Việt – Trung – Xô.
Liên Xô thì ở tận đẩu tận đâu xa xôi lắm, nhưng Trung Quốc thì ở ngay
bên cạnh. Suốt ngày hễ gặp nhau ngoài đường dù chưa quen biết là người ta cũng
liền nắm tay nhau hát múa rộn ràng. Hòa bình lập lại, Chính phủ về tiếp quản
Thủ đô, thì trên đường phố Hà Nội cũng xuất hiện rất nhiều chuyên gia Trung
Quốc. Còn nhỏ xíu nhưng tôi dễ dàng nhận ra họ vì cái áo kiểu Tôn Trung Sơn
rộng thùng thình dài đến gần đầu gối, cái quần xanh công nhân cũng rộng thùng
thình và cái mũ lưỡi trai bằng vải cũng mầu xanh như vậy. Tòa dinh thự hoành
tráng của Hoàng Trọng Phu trước Vườn hoa Canh nông và các biệt thự kế tiếp trên
phố Hoàng Diệu và phố Khúc Hạo trở thành Đại sứ quán và khu dành riêng của
người Trung Quốc. Mỗi buổi sáng sớm họ đứng kín nửa Vườn hoa Canh nông tập thể
dục và hô «I, ơ, xan, xư» ầm vang khu
phố Cột Cờ.
Ngày đó gia đình tôi ở gần kề các Đại sứ quán. Là con bé mới học đến cấp
2, tôi không thể hiểu nổi những chuyện đã xẩy ra, nhưng tôi có thói quen ghi
nhật ký. Đến tận bây giờ tôi vẫn còn giữ được những trang nhật ký trẻ thơ ghi
tỷ mỷ kỷ niệm về lễ mít tinh ngày 1/1/1955 nhân dân Thủ đô chào đón TW Đảng và
Chính phủ từ Việt Bắc trở về, đặc biệt trong cuốn nhật ký cũ ấy, tôi có ghi lại
kỷ niệm về một người con gái Trung Quốc tên là Khương Nãi Tuệ, chị ta được tôi
tặng hoa và tặng khăn quàng đỏ trong buổi chiêu đãi Đoàn văn công Tề Tề Cáp Nhĩ
do Chủ tịch UBND thành phố Trần Duy Hưng tổ chức tại Cung thiếu nhi Hà Nội tối
hôm 10/9/1955 và cả câu chuyện chiều hôm sau, ngày 11/9/1955, chị Văn công
Khương Nãi Tuệ bị chết trong cơn lốc Hồ Tây, khi chị ta đang đóng vai Sen Chúa
trong điệu Múa Hoa Sen, trên chiếc sân khấu ghép tạm cạnh Đầm Trị – Phủ Tây Hồ.
Khương Nãi Tuệ chết, mang theo chiếc khăn quàng đỏ do tôi tặng. Cùng
chết trong tai nạn đó còn có nghệ sĩ thổi sáo Phùng Tử Tồn và hai người nữa. Mộ
của họ mai táng ở nghĩa trang Bất Bạt huyện Ba Vì.
Sau cơn lốc khủng khiếp đó, tôi hay rơi vào tâm trạng ngẩn ngơ vì luyến
tiếc chiếc khăn quàng đỏ thì ít mà vì sợ hãi như thể tôi có liên can tới cơn
lốc làm lật úp ba chiếc thuyền và hại chết cô nghệ sĩ múa thì nhiều, nên tôi
hay đi lang thang nghe ngóng chuyện người lớn. Rất nhiều câu chuyện nhỏ to đập
vào tai tôi về một âm mưu yểm huyệt Hồ Tây nhưng bất thành và những người tham
gia vào âm mưu đó đã bị Trời phạt. Ngày đó Trung Quốc và Việt Nam thân nhau
lắm, nên người ta chỉ dám xầm xì nửa kín nửa hở và một cô bé con như tôi không
sao hiểu nổi thứ tình hữu nghị quái gở gì mà «người bạn lớn thân thiết» lại tìm mọi cách làm hại «đứa em tội nghiệp» vừa thoát khỏi chiến
tranh chống Pháp và đang rơi vào cuộc chiến tranh chống Mỹ?
Mấy chục năm sau, để giải tỏa tâm lý cho tôi quanh chuyện chiếc khăn
quàng đỏ, nhà ngoại cảm Phan Oanh làng Xuân Đỉnh tặng tôi một bài thơ dài,
trong đó có mấy câu: «Tâm con trẻ hồn
nhiên không xấu / Dấu nhà Trời ai thấu được đâu / Một dải khăn đào kết một cái
cầu / Để hồ thẳm nước sâu / Bà là nhịp cầu giữ yên non nước…».
2. Du học ở Trung Quốc
Tuổi trẻ hồn nhiên với nhiều ham thích đã có lúc cuốn hút tôi, khiến tôi
tạm quên đi cảm giác hoang mang lẫn sợ hãi hồi nhỏ.
Năm 1960 tôi tốt nghiệp phổ thông trung học, được miễn thi đại học, tôi
được cử đi học ngoại ngữ để sang Trung Quốc theo học ngành kiến trúc. Niềm háo
hức khiến tôi và các bạn cùng lứa sung sướng trong cảnh được «ăn cơm Bác Mao», được chăm sóc dạy dỗ ân
cần, lúc ốm đau được đầu bếp nấu những món ăn theo ý thích rồi mang đến tận
phòng riêng phục vụ tận tình.
Những năm tháng đó, mọi sinh hoạt vật chất và tinh thần của chúng tôi
đều được chăm sóc đặc biệt. Học Kiến trúc thì được học vẽ mỹ thuật trong 3 năm
đầu, học kỳ nào chúng tôi cũng được thầy giáo là một hoạ sĩ danh tiếng dẫn đi
vẽ dã ngoại ở các khu danh lam thắng cảnh cách Thượng Hải hàng trăm cây số, như
các thành phố Hàng Châu, Vô Tích, Tô Châu và ở hẳn đấy vài tuần. Ông họa sĩ già
hai bàn tay lấm mầu nhem nhuốc tận tình hướng dẫn chúng tôi cầm bút lông chấm
phá các mảng mầu xanh đỏ, còn vợ ông thì đi theo chăm sóc chồng và cần mẫn gọt
những trái lê trái táo bê đến từng góc vườn chia cho đám học trò chúng tôi.
Ngoài ra, những ngày ở trong trường chúng tôi luôn luôn được hưởng ưu đãi hơn
người, riêng tôi vì ham thích âm nhạc nên còn được giữ chìa khoá một căn phòng
có chiếc Piano sang trọng để tự do luyện tập. Đó là những thứ mà khi ở nhà với
cha mẹ, tôi chưa bao giờ dám mơ tới.
Chưa bao giờ tôi tự đặt cho mình câu hỏi: «Có phải họ đang vỗ béo chúng tôi để sau này về nước chúng tôi sẽ trở
thành hạt giống cho họ gieo mầm bành trướng phá hoại đất nước mình hay không?»
Chưa bao giờ tôi tự hỏi như thế cả, nhưng trong lòng không thể không gợn lên
những thắc mắc vô cớ. Tôi biết Trung Quốc ngày đó còn nghèo lắm, các bạn sinh
viên Trung Quốc phải ăn ở chen chúc trong những căn phòng chật chội của ký túc
xá, bữa cơm của họ chỉ có chiếc bánh bao không nhân, một bát cháo hoa loãng và
vài miếng ca-la-thầu.
Ngược lại tôi và chị bạn gái người Sài Gòn tập kết thì được hai cô bạn
người Thượng Hải nữa ở cùng trong một ngôi nhà dành riêng cho giáo viên và trợ
giảng. Đó là một tòa nhà 2 tầng có nhiều phòng, chúng tôi ở tầng hai cùng các
giáo viên nữ, còn tầng một dành cho giáo viên nam. Đã là giáo viên và trợ giảng
đại học, nhưng họ còn rất trẻ và đều chưa có gia đình riêng. Tôi hay lui tới
thăm nom họ và ái ngại thấy họ sống rất đạm bạc. Hóa ra họ phải nhịn ăn nhịn
mặc để nuôi chúng tôi. Tôi phát hiện biết có một thầy giáo bị bệnh gan và tiểu
đường rất cần bồi dưỡng nhưng tiêu chuẩn tem phiếu không đủ cung cấp, thầy luôn
luôn bị ngất xỉu, thấy vậy tôi hay đi mua thêm các thức ăn mang đến biếu thầy.
Chúng tôi trở thành người thân của các thầy cô giáo. Có những buổi chiều ngày
thứ 7, khi 2 cô bạn Thượng Hải đã về nhà, tôi và chị bạn Sài Gòn xuống ghế đá
trên vườn hoa ngồi hóng gió, thì các thầy cô giáo lân la đến bên chúng tôi, họ
tâm sự, chuyện trò và cho chúng tôi biết rất nhiều chuyện bí mật trong trường
và trong xã hội, tôi có cảm giác như đất nước này sắp có đại loạn.
Rồi đại loạn đến thật, cách mạng văn hóa nổ ra, đại đa số học sinh trung
học và sinh viên đều bỏ học, xuống đường tham gia Hồng vệ binh. Chúng tôi phải
chứng kiến cảnh suốt ngày Hồng vệ binh đi phá phách, hò hét, rạch quần áo, cắt
tóc người qua đường và báo chữ to xuất hiện khắp mọi nơi. Thê thảm hơn là chính
mắt chúng tôi được chứng kiến các Giáo sư trong trường đã từng giảng dạy chúng
tôi tận tình, bị làm nhục ngay trong sân trường bằng cách phải đeo các biểu ngữ
bằng giấy báo dán trên lưng hoặc đội những chiếc mũ có chóp nhọn, ghi những
dòng chữ tục tĩu.
Là một đứa con gái xuất thân trong một gia đình có nền giáo dục truyền
thống ở Việt Nam, tôi không sao chấp nhận nổi thứ triết lý cách mạng cho phép
học trò đấu tố thầy, hành hạ và sỉ nhục thầy như vậy. Nhận thức về một nước
Trung Hoa có truyền thống văn hóa lâu đời, hơi phong kiến một chút, nhưng rất
nề nếp và rất có kỷ cương đã hoàn toàn sụp đổ trong tôi. Đây là lần đầu và cũng
là lần duy nhất tôi phải chứng kiến hiện tượng vô đạo và bất nhân đáng sợ đó.
Rất lâu về sau tôi vẫn không thể hàn gắn được vết thương như những nhát chém
trong tim mình, về hình ảnh những Giáo sư đáng kính của chúng tôi bị hành hạ
lên bờ xuống ruộng bởi chính những người bạn sinh viên đã từng học tập ca hát bên
chúng tôi. Trong số đó, tôi biết, có người không muốn hành xử đê tiện như vậy,
nhưng nếu họ đi ngược lại phong trào chung, thì chính họ bị lôi ra đấu tố.
Chúng tôi rất sợ bị liên lụy nên nín lặng quan sát và nhìn nhau thầm
hỏi: « Họ đang cắn xé nhau, đến bao giờ
thì họ cắn mình đây?»
Đó là giữa năm 1966, đúng lúc chúng tôi làm xong đồ án tốt nghệp, trường
học gần như không hoạt động, chúng tôi không được bảo vệ luận án tốt nghiệp mà
chỉ được cấp bằng có đóng dấu nhưng không có chữ ký. Chúng tôi khăn gói vội
vàng rút về nước. Tất cả bạn học và thầy giáo đã bị đưa đi ra khỏi trường, một
số đi lao động quản thúc ở vùng nông thôn nào đó, một số khá đông đang là Hồng
vệ binh ngày ngày đi đập phá hò hét hoặc đả đảo ai đó. Cảnh Trường đại học Đồng
Tế, ngôi trường được xếp loại nhất nhì Trung Quốc, do người Đức thành lập đã
gần 100 năm trở nên hoang vắng buồn thảm đến lạnh sống lưng. Giáo sư nổi tiếng
Lý Đức Hóa, người từng được nhiều giải thưởng Quốc tế và bà vợ Bác sĩ người Đức
của ông không biết đã trôi dạt đi đâu? Lúc chúng tôi lên xe để ra ga về nước,
chỉ có mấy ông bà cấp dưỡng từng chăm sóc bữa cơm hàng ngày lặng lẽ gật đầu đưa
tiễn chúng tôi, mắt họ rơm rớm lệ.
Đến lúc đó thì tình cảm trong tôi hoàn toàn mất phương hướng và tôi thực
sự hiểu rằng người dân lao động Trung Quốc rất tốt, giới trí thức Trung Quốc
cũng thật tốt, các bạn học của tôi cũng tốt lắm. Nhưng các nhà cầm quyền? Tôi
không sao hiểu nổi các nhà cầm quyền và thứ «tình hữu nghị» mà suốt ngày họ ra rả trên đài phát thanh và trên
báo chí. Tôi rất muốn tìm hiểu xem cái gì là động lực thúc đẩy họ? Nhưng điều
đó nằm ngoài khả năng của tôi.
Chúng tôi rời Thượng Hải buồn bã và vội vàng như ma đuổi.
3. Thời kỳ đã trưởng thành
Chúng tôi về đến nhà đúng vào lúc máy bay Mỹ đang đánh phá Miền Bắc ác
liệt. Không khí cả nước có chiến tranh cuốn hút chúng tôi, khiến chúng tôi tạm
quên đi những cảm giác khó chịu của những ngày cuối cùng sống trên đất Thượng Hải.
Ngày ấy sinh viên từ nước ngoài về vẫn chưa nhiều, nên hôm đầu tiên về nhận
công tác ở Bộ Kiến trúc, chúng tôi đã được Bộ trưởng Bùi Quang Tạo đón tiếp ân
cần. Bộ trưởng khuyên chúng tôi vứt bỏ lối sống cậu ấm cô chiêu ở nước ngoài và
sớm thích nghi với khẩu hiệu «Ba sẵn sàng»
của thanh niên thời chiến.
Sau đó, mỗi người đến nơi sơ tán ở các làng quê theo địa chỉ riêng của
từng đơn vị công tác. Viện Quy hoạch đô thị của tôi ở huyện Vĩnh Tường tỉnh
Vĩnh Yên.
Vĩnh Tường của bà Hồ Xuân Hương rất đẹp, nhưng chỉ đẹp ban ngày. Còn đêm
đến, khi ngồi tư lự một mình bên ngọn đèn dầu trong nhà dân, những ký ức thời
trẻ thơ và những kỷ niệm ở Thượng Hải lại ập về khiến tôi suy nghĩ nhiều lắm.
Lúc này đã đủ lớn để có những chính kiến của riêng mình, nhưng tôi không
thể nói ra với ai. Tôi ở cùng nhà với một chị tốt nghiệp ở thành phố Kiev về,
chúng tôi quý nhau và luôn giúp đỡ nhau, còn «Liên Xô xét lại» và «Trung
Quốc giáo điều» thì mặc kệ họ, miễn là họ vẫn đang giúp ta những chiếc máy
bay Mic bay trên bầu trời và những phong lương khô để chống đói.
Dù sao, 5 năm ở Thượng Hải cũng để lại cho tôi nhiều kỷ niệm đẹp hơn kỷ
niệm xấu, tôi cố tự lý giải rằng sự cố đã xẩy ra là do sự quá đà của một nhóm
người hãnh tiến nào đó. Khoảng 10 năm tiếp theo, không thể liên lạc thư từ với
bạn học cũ, nhưng tôi theo dõi và nuôi trong lòng chút hy vọng đổi thay của một
đất nước đã nuôi tôi ăn học thời sinh viên, ở đó tôi từng có những thầy giáo và
bạn học thân thiết. Khi nghe tin ông Đặng Tiểu Bình được phục chức, tôi những
tưởng tình hình sẽ khá hơn, nhưng tôi chưa kịp mừng thì liền xẩy ra cuộc tấn
công biên giới đầu năm 1979 do ông Đặng Tiểu Bình chỉ huy để «Cho Việt Nam một bài học». Không chỉ có
thế, mười năm sau lại thấy cuộc tàn sát đẫm máu nội bộ của Sự kiện Thiên An Môn
cũng do Đặng Tiểu Bình chỉ huy, tôi thực sự thất vọng và hiểu rằng những người
cầm đầu nhà nước Trung Quốc thời nào cũng vậy, họ chống nhau, phá nhau chỉ vì
tranh cướp quyền lực và càng lộ rõ thói cường quyền, tàn bạo kiểu thời Trung cổ
của họ mà thôi.
4. Trung Quốc hôm nay?
Sau 60 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, chẳng tìm hiểu kỹ thì ai cũng
biết Trung Quốc đã thay đổi rất nhiều và rất đáng kính nể. Tuy vậy, khi tôi trở
lại thăm trường cũ, thăm thầy giáo và thăm bạn học cũ, thì tôi hiểu: ngoài bộ
mặt hào nhoáng đầy khí thế của một Trung Quốc đại nhảy vọt mà họ đang ra sức
quảng bá, vẫn còn có một Trung Quốc khác rất âm thầm, u uất và đau đớn của tầng
lớp trí thức và những người dân lương thiện ở trên khắp nước Trung Hoa đã từng
bị chà đạp, bị sỉ nhục và chịu nhiều đắng cay trong nửa thế kỷ qua. Tầng lớp
này không ít đâu, con số có thể đến hàng trăm triệu hoặc hơn và đang sống trên
khắp miền của đất nước họ. Chính quyền hiện tại đang áp đảo họ, khiến họ phải
câm lặng, nhưng chính quyền không thể thu phục được lòng họ và họ sẽ bùng lên
bất cứ lúc nào.
Đến Thượng Hải, tôi thấy Thượng Hải thay đổi rất nhiều. Nhưng khi tôi về
thăm trường cũ, đến thăm thầy cô giáo cũ vẫn đang sống trong «Đồng Tế tân thôn» bên cạnh trường và
thăm nhà riêng một vài bạn học cũ, tôi thấy một cuộc sống khác hẳn. Họ rất
nghèo nàn và thật khắc khổ. Có bạn vừa gặp tôi, liền ôm hai vai tôi và khóc nức
nở. Đây không phải vì họ cảm động, vì mừng vui hội ngộ sau nhiều năm xa cách.
Họ khóc vì gặp lại chúng tôi là gặp lại nhân chứng của một thời nhục nhã và
đáng xấu hổ. Tôi đọc được tình cảm đó khi tôi xem bộ phim truyện «Nghiệp chướng» nói về những éo le và mất
mát đeo đẳng suốt đời lớp thanh niên trí thức Thượng Hải, trong đó có rất nhiều
người từng là bạn tôi. «Nghiệp chướng»
là cái giá rất đắt mà những người cầm đầu đất nước này đã gây ra cho bao gia
gia đình trí thức để rồi đến lúc họ sẽ phải trả. Một người bạn tôi nói vơí tôi:
«Tôi từng là Hồng vệ binh và đang là nạn
nhân của Hồng vệ binh suốt đời. Đó là lũ con tôi, cháu tôi hôm nay».
Có trong tay cuốn địa chỉ và số điện thoại của bạn cũ ở khắp nơi, chúng
tôi đã dành ra gần 2 tháng đi thăm bạn và để quan sát sự thay đổi của nước
Trung Hoa. Nhưng khắp Trung Quốc hôm nay, ngoài những người rất câm lặng, rất
đau khổ như tôi vừa nói, còn lớp người Trung Quốc thứ ba đang vừa là chỗ dựa
vừa là gánh nặng uy hiếp Nhà nước Trung quốc: Bọn này đông lắm. Đó là lũ lưu
manh mạnh vì gạo bạo vì tiền. Đáng tiếc, các vị trong chính quyền Nhà nước
Trung Hoa đã từng có thói quen dùng bọn lưu manh này làm «chỗ dựa» để đối phó với các lực lượng thù địch, nhưng khi không cần
nữa hoặc không sử dụng được nữa thì họ tiêu diệt «chỗ dựa» đó đi.
Tôi nhớ lại ngày chúng tôi chuẩn bị về nước năm 1966, bà Giang Thanh nổi
lên oai phong y như Võ Tắc Thiên ngày xưa, cạnh bà có 3 kẻ thân cận là Vương
Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên và Trương Xuân Kiều, tạo thành một «Bộ tứ trụ» điều khiển gần một tỷ dân.
Nhưng thời nay còn có rất nhiều người cao thủ hơn bè lũ bốn tên thời đó. Thời
nay có các băng đảng lưu manh kết hợp với công an và chính quyền hình thành hệ
thống Mafia ở khắp mọi nơi. Sự kiện triệt phá Mafia ở thành phố Trùng Khánh vừa
qua là một thí dụ. Không thể tin được trong một đô thị hiện đại của một quốc
gia hùng mạnh mà bọn lưu manh côn đồ bị truy bắt trong một đợt đã lên đến ngót
2000 tên, trong số đó có cả Giám đốc Sở Tư pháp và nhiều sĩ quan công an.
Cuôí cùng, có thể quan sát «Trung
Quốc hùng cường hôm nay» bằng cách quan sát những người Trung Quốc đang
xuất hiện ở Việt Nam
ngày càng nhiều với vai trò lao động chui. Những người này có thể vì đói khát
quá hoặc vì đã là tội phạm bị giam cầm lâu quá, nay được đưa sang đây để sống
cuộc đời phá phách, trộm cắp, lừa đảo và để tìm cách lấy vợ sinh con và sẽ là
lực lượng nằm vùng nội ứng cho các cuộc tấn công của quân chính quy sau này.
Lũ người này có đáng sợ không? Làm cách nào để dẹp chúng? Thiết nghĩ mọi
người đều hiểu.
PHẦN II - Tôi hiểu gì về Trung Quốc?
Sau khi đã biết quá rõ mục tiêu truyền kiếp của nhà cầm quyền Trung Hoa
suốt mấy ngàn năm là trấn áp nội bộ, tranh chấp quyền lực và chiếm bằng được
đất nước ta, tôi quyết định xin về hưu từ năm 1992 với nhiều lý do riêng, một
lý do trong đó là muốn tập trung thời gian vào nghiên cứu các lý thuyết về
phong thủy địa mạch, thứ lý thuyết mà từ năm 1955 tôi đã «không may» bị tận mắt chứng kiến.
Chúng ta phải cám ơn các nhà truyền giáo Phương Tây, đặc biệt là các
giáo sĩ Bồ Đào Nha có công đầu về việc sử dụng chữ gốc La-tinh để phiên âm
tiếng Việt trong việc truyền đạo vào nước ta ở thế kỷ XVI-XVII như Francisco de
Pina, đến người biên soạn cuốn từ điển Việt-Bồ-La đầu tiên là Alexandre de
Rhodes (1651) và nhất là người có công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ ở thế kỷ XIX để
trở thành chữ viết chính thống của nước ta đầu thế kỷ XX là Bá Đa Lộc – Pierre
Joseph Georges Pigneau de Béhaine. Cám ơn các vị Giáo sĩ đã góp phần giúp ta
thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa nô dịch Trung Hoa. Nhưng đây cũng là một sơ
hở khiến lớp trí thức trưởng thành trong thế kỷ XX đã lãng quên một số cơ sở
quan trọng của khoa học Phương Đông, trong đó có Phong thủy, Địa mạch và Kinh
Dịch.
Sau 17 năm nghỉ việc ở Bộ Xây dựng, tôi đã cố bù lại những lỗ hổng mà
lớp trí thức ở lứa tuổi của tôi đã mắc phải. Lúc này tôi đã có nhiều thời gian
để hiểu rõ trong cấu trúc phong thủy địa mạch của nước ta có một thứ mà nhà cầm
quyền Trung Quốc rất thèm muốn. Họ thèm muốn vì họ không có và họ hiểu rằng làm
chủ được cái đó là họ chiếm được nước ta và chiếm được nước ta là họ làm chủ
được cả thế giới. Tôi nói nhà cầm quyền thèm muốn chứ không phải nhân dân, bởi
vì thực hiện mộng bá quyền, người dân lương thiện Trung Quốc không hề được
hưởng lợi.
1. Hệ Địa mạch nước Trung Hoa: Chiếc bánh sandwich
Một đất nước rộng lớn mà các lớp đất, đá, n
úi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich
úi, sông… chồng xếp thành từng lớp như cái bánh sandwich
Theo phân tích và tổng kết hệ thống đã công bố tháng 5/2005 của KTS Lý
Thái Sơn, thì đó là một thứ liên kết rời rạc của hệ Tam đại càn long sẽ bị trôi
tuột đi bất cứ lúc nào, đó là một nước Trung Hoa có các khu vực Bắc Hoàng Hà,
khu kẹp giữa Hoàng Hà và Trường Giang, khu Nam Trường Giang, tạo thành một quẻ
Chấn gồm hào một liền và hào hai gãy, hào ba gãy có nghĩa là sấm sét, không ổn
định, dễ vỡ tung; cũng như khu Đông và khu Tây là hai vệt thẳng đứng, không có
mối quan hệ về kinh tế, phong tục tập quán, sắc tộc và có thể tách ra thành 4
hoặc 5 quốc gia độc lập.
Mặt khác, ngay cả đến dân tộc Đại Hán cũng là kết quả của một quá trình
chiến tranh và đồng hóa lẫn nhau, vì người Hán nguyên gốc rất ít, nhưng người
ta có chính sách cưỡng chế người dân tộc khác biến thành người Hán, nên họ bị
phản đối và ở nước Trung Hoa chưa bao giờ hết nội chiến. Ở Trung Hoa không có
hai chữ «ĐỒNG BÀO» và trên đất nước
này không có cụm từ sức mạnh đoàn kết toàn dân. Hiện nay không chỉ Đài Loan là
quốc gia độc lập mà Tây Tạng, Tân Cương, Hồng Kông, Ma Cao… đang như các quốc
gia bị Bắc Kinh đô hộ. Nếu tách được ra thì các quốc gia đó sẽ giàu có và trù
phú hơn nhiều. Còn Bắc Kinh thì luôn phải dùng biện pháp đàn áp. Họ đàn áp ở
ngay giữa Thủ đô như sự kiện Thiên An Môn năm 1989 và đàn áp dã man các vùng xa
xôi như Tây Tạng, Tân Cương trong năm 2008 và 2009.
Tuy vậy, các thế hệ cầm quyền Trung Hoa từ thời cổ đến nay đều đã nghiên cứu kỹ phong thủy địa mạch và họ ý thức được rằng có một cách vãn hồi được điểm yếu cấu trúc trượt của chiếc bánh sandwich là phải làm chủ đường kinh mạch lợi hại đi từ đỉnh Everest cao gần 9000m của dãy Hymalaya qua cao Tây Tạng, qua nguyên Vân Nam, qua đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam, xuống vịnh Hạ Long rôì đi đến đáy đại dương sâu nhất thế giới gần 11Km ở vịnh Mindanao Philippin. Đó cũng là mạch đất độc đáo nối từ «Cổng Trời» đầy thiên khí đến «Địa Huyệt» đầy của cải có độ cao chênh nhau ngót 20Km và là đường kinh mạch quan trọng nhất thế giới. Nếu họ làm chủ được đường kinh mạch này thì không những họ có gọng kìm xiết chặt chiếc bánh sandwich đó, không cho nó trôi trượt đi, mà họ còn có thể mau chóng làm chủ cả thế giới. Bởi vậy, lúc này họ đang cố sức «củng cố nơi họ đã là chủ và chiếm thêm nơi họ chưa chiếm được» để thực hiện ước nguyện bá chủ toàn cầu.
* Sau hàng ngàn năm với nhiều thủ đoạn, cao nguyên Vân Nam rộng
390.000Km2 có 26 dân tộc đến nay đã bị họ khống chế hoàn toàn, người dân tộc
Di, dân tộc Choang mỗi ngày một ít, người Hán đã di cư về đây trên 20 triệu và
thành phố Côn Minh hiện đại hơn ba triệu dân ngày nay là thành phố của người
Hán (người Hán thật thì ít, người Hán mới bị đồng hóa thì nhiều).
* Ngược lại, khu tự trị Tây Tạng, nóc nhà của thế giới và là Thủ đô của
Đạo Phật, vốn là một quốc gia độc lập văn minh, đã bị chính thức lệ thuộc vào
Trung Hoa từ năm 1914 đến nay. Thật xấu hổ và nhục nhã cho một chính thể, một
Nhà nước suốt ngày hô hào «đoàn kết các
dân tộc» lại đang đàn áp và hủy diệt người Tây Tạng, đập phá chùa chiền đến
mức người đại diện cho Đạo Phật và là linh hồn của dân tộc Tạng là Đức Đa Lai
Lạt Ma phải đi lưu vong, việc đó đã khiến Ấn Độ và các quốc gia Tây Á không thể
làm ngơ và đang ở bên dân tộc Tạng. Điều đó cũng có nghĩa là Nhà nước Trung
Quốc sẽ không thể đạt được cái họ muốn (Tây Tạng).
Còn ở Việt Nam
chúng ta? Lịch sử bốn ngàn năm của nước ta là lịch sử chống ngoại xâm. «Ngoại xâm» đây là chỉ giặc Phương Bắc,
bởi vì Phương Đông, Phương Tây và Phương Nam gần như không có. Hơn hai ngàn
năm qua thì giặc ngoại xâm đã bị chỉ đích danh những những nhân vật cụ thể như
Triệu Đà, Mã Viện, Cao Biền… Bởi thế ta rất cần biết tại sao họ quyết chiếm
nước ta và tại sao họ không thể chiếm nổi?
2. Địa mạch Việt Nam : Khúc quan trọng trong địa mạch
toàn cầu
Trong quá trình địa kiến tạo vỏ trái đất, có những nếp gấp lớn tạo ra
dãy núi cao đóng vai trò đường kinh mạch trọng yếu xuyên qua nhiều quốc gia như
phần trên đã phân tích. Sau Tây Tạng, Vân Nam , thì đồng bằng Bắc Bộ nước ta
là phần rất quan trọng của mạch đất này (đọc Đại địa mạch quốc gia). Dãy
Hymalaya chạy vòng vèo như hình con rồng lớn, đoạn đến nước ta là dãy Hoàng
Liên Sơn với đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, đến Việt Trì mạch đất lặn xuống, tỏa
ra và qua sông Đà lại xuất hiện cụm Ba Vì cao 1226m, điểm nhấn của THĂNG LONG
NÚI CHẦU SÔNG TỤ. Trước khi Vua Lý Thái Tổ chọn nơi này dựng Kinh đô Thăng Long
thì người Trung Hoa đã dòm ngó vùng đất kỳ bí này và Cao Biền tấu thư kiểu tựlà
một trong những kết quả tìm kiếm công phu nhất. Theo báo cáo của Cao Biền, một
người tài giỏi gốc Mãn Châu thì vùng đất nhỏ bé này tụ hội rất nhiều linh khí
đất trời và sản sinh ra nhiều hiền tài, ông ta tìm thấy 632 huyệt chính, huyệt
phát đế và 1617 huyệt bàng, huyệt phát quan, nên một mặt ông ta theo lệnh vua
Đường Y Tông yểm phá các báu huyệt để tiêu diệt hiền tài của nước ta, mặt khác
ông ta hiểu giá trị của vùng đất này, nên đã xây thành Đại La, mưu đồ thực hiện
mộng bá vương và đã bị vua Đường trị tội. Âm mưu yểm huyệt Thăng Long chưa bao
giờ ngơi nghỉ trong đầu các nhà cầm quyền Trung Hoa và hành động thô bạo ngày
11/9/1955 mà tôi vô tình chứng kiến có làm cho họ thận trọng hơn.
Hiện nay họ biết không thể ngang nhiên đổ bộ vào Thủ đô, họ đi vòng vèo
từ phía Tây qua Lào, qua Cam pu chia và họ đang chiếm Bauxite Tây nguyên, còn
tại Trung tâm Thủ đô, họ đang nhờ bàn tay nào phá Thủ đô của ta? Tinh ý, chúng
ta sẽ biết.
3. Địa mạch Việt Nam: Vùng Biển Đông, yết hầu của Đông Nam Á
Không phải ngẫu nhiên vô cớ mà trên vịnh Bắc Bộ rộng lớn của chúng ta
còn có vịnh Hạ Long bao gồm 1969 hòn đảo lớn nhỏ, ngay sát Cảng Vân Đồn lại có
vịnh Bái Tử Long, và ngoài khơi xa của Hải Phòng có đảo Bạch Long Vĩ, ngoài ra
còn có nhiều đảo có tên liên quan đến Rồng như Hòn Rồng, Long Châu, thôn Cái
Rồng…, cái tên Long liên quan đến phần đuôi của con Rồng lớn xòe ra ở đồng bằng
Bắc Bộ, đi xuống nước ở Cảng Vân Đồn và kết thúc ở đáy Đại dương thuộc vịnh
Mindanao thuộc Philippin. Có lẽ đây cũng chính là cái chốt trọng yếu khiến
Trung Quốc quyết tâm xây dựng lực lượng hải quân hùng mạnh và ngang nhiên công
bố đường lưỡi bò chín đoạn trên Biển Đông vào tháng 5/2009, vi phạm trực tiếp
đến 5 quốc gia Đông Nam Á và nền an ninh cả thế giới. Đây là sản phẩm kế thừa
của chính quyền Quốc dân Đảng từ năm 1947, điều đó cũng cho thấy thời nào cũng
vậy, mưu đồ bá quyền của chính quyền nhà nước Trung Quốc không thay đổi. Chắc
hẳn lúc này không chỉ các nước Việt Nam, Philippines, Brunei, Indonesia và
Malaysia ý thức được đường lưỡi bò này vi phạm đến chủ quyền của mình, mà gần
như cả thế giới đã nhận ra mưu đồ chiếm cứ con Rồng lớn nhất thế giới của nhà
nước Trung Hoa, bởi vì chiếm cứ được cái yết hầu này là họ chiếm được cả Châu Á
và một khi chiếm được Châu Á rồi thì bước đi tiếp sẽ ra sao? Thế giới, trong đó
có Mỹ, Nhật, Ấn Độ và các nước Châu Âu có để cho họ làm điều đó không ?
4. Địa mạch Việt Nam : Cấu trúc Âm Dương hoàn chỉnh
Đồng bằng Bắc Bộ là cái nôi đầu tiên của Nhà nước Văn Lang, nhưng hình
chữ S của Con Rồng đất nước Việt Nam ngày nay đã tạo nên một thế cân bằng Âm
Dương rất hoàn chỉnh. Như sự ví von của nhà thơ Xuân Diệu, thì Đất nước ta như
một con tàu / Mũi thuyền ta đó mũi Cà Mau.
Núi chầu sông tụ Thăng Long theo hình thế Âm Dương
Điều đó cho thấy từ mấy ngàn năm trước cái nôi đồng Bằng Bắc Bộ đã vững
như bàn thạch, từ thế kỷ XVI trở lại đây, khi đất nước đã phát triển xuống phía
Nam thì con thuyền đất nước đã đủ tư cách rẽ sóng ra khơi và điều đó cũng cho
thấy đã là con thuyền thì các phần mũi thuyền, thân thuyền và đuôi thuyền không
thể tách rời nhau. Bởi vậy hơn lúc nào hết, chúng ta cần ý thức được sự sống
còn của vận mệnh đất nước, để xác định thái độ và hành động của mình.
LỜI CUỐI BÀI
Để kết thúc bài viết, tôi muốn quay lại những dòng mở đầu, rằng tôi
không có chút năng khiếu nào trong những vấn đề kinh tế, xã hội và an ninh
chính trị, nhưng do nghề nghiệp và do số phận, tôi đã có dịp hiểu rất sâu vào
cốt lõi của vấn đề kinh tế và chính trị trong mối quan hệ vơí Trung Quốc hiện
nay. Bởi vậy tôi muốn khuyên tất cả mọi người, nhất là các vị sinh ra sau tôi
và chưa có dịp trải nghiệm như tôi, là hãy tỉnh táo để thoát ra khỏi cõi u mê
của sự hoang tưởng trong mối quan hệ với Trung Quốc. Cha ông ta đã trải qua
hàng ngàn năm mới đưa ra được lời dạy bảo và bản thân tôi phải trải qua hơn 55
năm để chiêm nghiệm và thấm nhuần lời dạy bảo của cha ông.
Tôi biết, lúc này đã có rất nhiều người suy nghĩ như tôi hoặc sâu sắc
hơn tôi, nhưng vẫn còn khá đông người đang lầm lẫn và ảo tưởng, không ít người
còn rất sợ vía người bạn lớn vĩ đại Trung Hoa, tôi không trách họ vì đôi lúc
chính tôi cũng tin ở họ và nể sợ họ lắm. Nhưng xin mọi người hãy bình tâm và
suy ngẫm xem cái gì tạo nên sức mạnh của họ và cái gì đang giết chết sức mạnh
đó?
Đông dân là một sức mạnh
Đúng vậy, ngày tôi đang học ở Thượng Hải thì Trung Quốc mới xây xong cầu
Trường Giang, họ rất tự hào nói rằng, chỉ cần toàn dân Trung Hoa, mỗi người
tiết kiệm một cái bánh bao là đủ xây một cái cầu Trường Giang. Đó là một việc
làm tốt.
Trong thế vận hôị 2008 ở Bắc Kinh, họ xây dựng Sân vận động Tổ Chim độc
đáo hết 432 triệu USD, nếu chia cho 1,3 tỷ dân thì họ phải cắt xén của mỗi
người 0,32 USD, việc đó có vẻ cũng vẫn tốt.
Hiện nay họ đang làm nhiều việc ghê gớm hơn như xây dựng đại hàng không
mẫu hạm trên Biển Đông và các căn cứ hải quân… tôi nghĩ họ cũng sẽ làm được đủ
để dọa nạt chúng ta và các nước trong vùng.
Có điều, một thảm họa đông dân mà Nhà nước không vì dân thì Nhà nước sẽ
khốn đốn. Có ai biết rằng trên đất nước Trung Hoa vĩ đại đang có 200 triệu
người sống lang thang không nhà cửa và đặc biệt hệ thống băng đảng Mafia ở hầu
hết các thành phố lớn như Thâm Quyến, Thượng Hải, Quảng Châu… đang chia cắt
quyền lực của đất nước họ hay không? Việc tầy trời này thiết nghĩ cũng không
cần nhiều lời và chính là việc của các nhà chiến lược.
Vậy thì mọi nỗ lực của họ có thể có một kết thúc có hậu hay không?
T.T.V. Bài do tác giả gửi cho Bauxite Việt Nam .
HT biên tập
http://bauxitevietnam.info/c/18257.html
II. Câu chuyện về chữ «Thời»
Thế hệ trí thức dấn thân hôm nay, trước nội tình «tơ vò» của đất nước, muốn giữ vững nhân cách ngay thẳng và tư tưởng
độc lập, không ai không từng bị trả giá, dù ít hay nhiều. Kiến trúc sư Trần
Thanh Vân là một trong số ấy.
Hàng chục năm trời chị đã dồn tâm lực bảo vệ Hồ Tây, một báu vật trời
cho, cảnh quan tuyệt mỹ của Thăng Long, nơi mỗi tấc đất đúng là một tấc vàng. Chị
đã cùng những người bạn chung chí hướng gắng sức đẩy lùi mọi mưu đồ xâm hại Hồ
Tây hết đợt này đến đợt khác, dưới hình thức những dự án «mỹ miều» và cực kỳ «hấp dẫn».
Chị đấu tranh với chúng đến bạc tóc, đến nỗi cũng vì ngày đêm quá quan tâm đến
vận mệnh «nàng Tây Thi đất Việt» (lời
ví von Hồ Tây của Cao Bá Quát) mà đành bất lực nhìn đứa con thân yêu ra đi ngay
trên tay mình, rồi cha mẹ cũng nối nhau qua đời khi sự nghiệp gìn giữ Hồ Tây
chưa thể nói là xong. Một người bạn yêu quý của tôi cũng đã ở vào tình cảnh
chị, cũng đã phải vượt qua nỗi đau đứt ruột như chị, nên mỗi lời chị viết ra,
tôi biết, như bứt từ trái tim.
Trong những dòng tâm sự của chị, giờ đây, ta đọc được một sự an nhiên,
điềm tĩnh của người sau nhiều năm trải nghiệm, đã nắm được quy luật an bài của
Tạo Hóa, biết vững tin vào lý tưởng mà mình theo đuổi, không lùi bước, giống
tảng đá trơ gan cùng sóng gió, nhưng cũng không quá nôn nóng để đến nỗi hỏng
việc. Có thể nói chị giúp cho mọi người những kinh nghiệm quý báu khi đối diện
với mỗi sự việc éo le, phức tạp, đòi hỏi phải nương theo xu thế bên trong của
nó mà tìm ra cách ứng phó thích đáng, đúng hơn phải xem xét tinh tường cái «mắt bão» của mọi sự cố để tránh đi những
tổn thất vô ích nhằm giành cho mình phần thắng cuối cùng.
Trong ý nghĩa của những lời tự bạch, xin mời bạn đọc hãy cùng chiêm
nghiệm và rút ra cho mình vài điều bổ ích, qua bài viết ngẫu hứng của Kiến trúc
sư Trần Thanh Vân.
Nguyễn Huệ Chi
Một vài kinh nghiệm dấn thân
Cụ Nguyễn Ngô Thức, tên thường gọi Ngô Thức, tên hiệu Ức Cung, năm nay
đã gần 90 tuổi, là hậu duệ chính gốc của đại danh nhân Nguyễn Trãi (1380-1442)
ở làng Nhị Khê thuộc huyện Thường Tín Hà Nội. Là một trí thức con dòng cháu
giống, thời trẻ từng là Cục trưởng Cục Đồ bản, nhưng cụ Ngô Thức rất khiêm tốn
và lặng lẽ, hiện cụ đang ở cùng với người con trai trưởng trên một căn gác chật
chội ở gần Đường Láng. Sống kín đáo và ẩn dật như vậy, lại thêm bệnh điếc lác
do tuổi già, nhưng cụ Ngô Thức vẫn thường có khách quen ghé thăm. Mọi người đến
thăm cụ do tình cảm, do muốn thỉnh giáo cụ đôi điều về lẽ sống ở đời và đặc
biệt muốn cụ «gieo cho một quẻ» để
xem vận hạn năm nay lành dữ ra sao.
«Cụ rất giỏi về Kinh Dịch và đã
từng có nhiều học trò theo cụ tìm hiểu môn khoa học thần bí này. Cụ thường nói
rằng: trong Kinh Dịch thì khó nhất là nắm được chữ «thời» mà muốn nắm được «thời»
thì phải biết «nhẫn», bởi vì cho dù ý định hay, lòng dạ tốt, nhưng thiếu
kiên nhẫn đều dẫn tới kết quả chẳng ra sao. Cụ đưa ra lời khuyên là, cho dù hôm
nay trời còn đang u ám, bao nhiêu tin dữ đang đổ về, nhìn thấy bánh xe không
phanh lao xuống dốc, ta đừng cố dùng chút lực tàn để kéo giữ nó lại, nó có thể
sẽ nghiền nát ta. Hãy để cho nó lao đi, cho đến khi «Cùng tắc biến, biến tắc thông».
Cái lẽ của chữ «thời» chính là
ở chỗ đó.
Tôi từng có quan hệ khó quên với cụ Ngô Thức.
Cách đây 11 năm, khi tôi liều lĩnh cùng KTS Nguyễn Trực Luyện Chủ tịch
Hội KTS Việt Nam và KTS Hoàng Phúc Thắng (đã mất) và KTS trẻ Nguyễn Hoàng
Phương chống lại dự án Thủy cung Thăng Long ở bán đảo Tây Hồ, thì cụ Ngô Thức
đã đi xe đạp từ khu tập thể Kim Liên đến Quảng An quận Tây Hồ thăm tôi và động
viên tôi hãy dũng cảm, đừng khiếp sợ, vì nhất định chúng tôi sẽ thắng. Sau này
chúng tôi hiểu ra: chiến thắng đó không phải do chúng tôi giỏi, càng không phải
do chúng tôi mạnh, mà chính là do chữ «thời».
«Thời» đó có thể là một giai đoạn
dài, cũng có thể chỉ là phút giây ngắn ngủi, nhưng nếu nắm được nó để làm được
việc gì tốt cho xã hội hoặc ngăn cản một sai trái có hại cho đất nước, thì nó
sẽ phát huy tác dụng đúng lúc. Vậy là đủ!
Hai năm sau tôi gặp một chuyện buồn và được cụ Ngô Thức chia sẻ.
Thủy cung Thăng Long xong thì tôi bị lừa mất nhà cửa, cha mẹ bị ốm nặng,
tiền bạc túng thiếu và đúng trưa Rằm tháng Bảy năm Canh Thìn, đứa con trai thân
yêu của tôi qua đời vì bị cảm đột ngột. Cháu lặng lẽ bỏ tôi ra đi ngay trước
mặt tôi mà tôi không kịp biết. Đối với tôi trời như đã sập xuống. Toàn thân tôi
tê liệt. Hôm sau đến nhà tang lễ khâm liệm cho con mà tôi tưởng như mình nằm
trong đó.
Mấy hôm sau nữa cụ Ngô Thức gọi tôi đến nhà. Lúc này cụ đã yếu hơn, tai
đã nặng hơn mà chân cũng đã run. Cụ đưa cho tôi mảnh giấy xé trong vở học sinh
ghi sẵn những điều sau này tôi cần xem lại, rôì cụ nắm chặt hai bàn tay tôi: «Cháu đi vào giờ chính Ngọ, được nhập mộ. Quẻ
này là quẻ Sơn hỏa bí, quẻ trang sức. Đẹp lắm, hình hài nó đẹp, thời tiết đẹp,
đám tang cũng đẹp. Nhưng đó là cái đẹp bên ngoài, còn cái đẹp nhân văn ở bên
trong thì cha mẹ phải tự tìm để hiểu xem con nó muốn dặn mình điều gì?»
Tôi cầm mảnh giấy về nhà cất đi mà lòng không sao hết tê tái.
Câu chuyện về chữ «thời»
Vậy là đã chín năm. Chín năm là thời gian đủ dài để người ta quên đi
nhiều thứ. Nhưng tôi lại trải qua nhiều biến động và không thể nào quên con
tôi, nếu không nói rằng tôi luôn cảm thấy nó ở bên cạnh mình: Cha mẹ tôi đều đã
mất trong năm 2002, cụ ông thọ 88 tuổi và cụ bà thọ 83 tuổi, đó cũng là lẽ
thường tình. Nhưng con tôi đã đòi được cho tôi ngôi nhà, một tài sản rất lớn mà
có lúc tôi tưởng như mất trắng. Kỳ diệu hơn cả là con tôi đã đưa được thằng em
về ở với vợ chồng tôi, một phần thưởng lớn hơn mọi phần thưởng trên đời.
Từ đó tôi có một niềm tin chắc chắn rằng trời có mắt, rằng hãy sống cho
có ý nghĩa thì sẽ không bị trời phụ. Từ đó tôi tự tạo cho mình một thói quen,
mỗi khi phải suy nghĩ điều gì hệ trọng, thì tôi coi như mình không tồn tại, tôi
có thể đứng ngoài bản thân mình phân tích mọi tình huống sẽ xảy đến và tôi dễ
dàng tìm ra cách giải quyết gọn nhẹ thông minh nhất.
Ví dụ như hôm thứ Ba vừa rồi, tôi nhận được điện thoại của một cô gái
Việt Nam tên là Q.A, số điện thoại là 0988… nói rằng cô là phiên dịch cho một
người Hàn quốc ở Liên danh tư vấn quốc tế PPJ. Người đó tên là «Bu». Cô ta báo anh Bu muốn gặp tôi để
trao đổi với tôi về quy hoạch Hà Nội mở rộng. Nghe ra có vẻ rất vì công việc
nên lúc đầu tôi tỏ vẻ đồng ý.
Tôi hỏi:
– Cho cô biết gặp để làm gì?
Trả lời
– Nghe ý kiến cô về quy hoạch Hà Nội.
Tôi nói:
– Cô phát biểu tại hội nghị phản biện rồi và cũng viết nhiều bài trên
báo mạng rồi còn gì?
Trả lời:
– Nhưng còn nhiều quan điểm khác, nên anh Bu muốn nghe lại ý kiến cô.
– Bao giờ hả cháu?
Trả lời:
– Tùy ở cô, nhưng thứ Sáu, ngày 21/8/2009 phải báo cáo Thường trực Thủ
tướng Chính phủ rồi, nên anh Bu muốn gặp cô chiều thứ Tư hoặc sáng thứ Năm.
Hỏi:
– Vội thế sao? Vậy gặp ở đâu?
Trả lời:
– Tại nhà cô, anh ấy không muốn cô phải đi lại vất vả.
Tôi nói:
– Nhà cô? Để cô xem xem rồi trả lời sau nhé!
Điện thoại tạm ngừng.
Nhà tôi lúc ấy không có ai, tôi nhìn tấm ảnh con trai tôi và «hỏi ý kiến» nó.
Nó bảo: «Không được đâu mẹ ơi, mẹ
đang bị chiếu tướng đấy, mà người Hàn quốc lại nổi tiếng trò phong bì đi dưới
gầm bàn, họ ký với Chính phủ ta hợp đồng vớ bở hơn 6 triệu USD thì họ sẽ đưa
cho mẹ không ít đâu, lúc đó mẹ sẽ xử lý thế nào? Hơn nữa, ngày mai là ngày mồng
Một tháng Bảy, cho dù không có phong bì mà chỉ có vài quả táo đặt trên ban thờ
nhà ta thôi là mẹ coi như thành liệt sĩ rồi!»
Ý kiến của nó đúng quá.
Một lúc sau điện thoại lại reo:
– Cô ơi, anh Bu nghe nói cô đồng ý gặp thì anh ấy vui lắm. Anh Bu mời cô
chiều mai đến khách sạn Inter-Continental ở gần nhà cô để uống trà.
Thế là họ đã tiến thêm một bước và càng dễ cho tôi từ chối:
– Cháu nói hộ với anh Bu là cô rất cám ơn, nhưng cô không có thói quen
làm việc bên bàn trà. Vậy nếu anh ấy muốn nghe ý kiến đóng góp của cô thì gửi
cho cô một bộ tài liệu, sau khi đọc kỹ rồi cô sẽ góp ý kiến bằng bài viết. Nếu
không, thông qua Chính phủ VN cô sẽ phát biểu ý kiến của mình. Thế thôi nhé,
chào cháu!
Chuyện đến đây coi như chưa kết thúc, bởi vì các quan hệ phức tạp vẫn
còn tiếp diễn và người ta có thể sẽ còn gặp nhau trong phòng hội nghị hay ở đâu
đó với những cái bắt tay, những lời cám ơn và… cả những âm mưu.
Cuộc sống ngày nay là vậy, một thường dân, một mụ già đã bị «vứt vào sọt rác» như tôi mà còn cần tỉnh
táo, cần khôn khéo trong ứng xử và cả bản lĩnh biết vượt qua những cái rất tầm
thường trong con người mình, thì những người khác với cương vị, với trọng trách
đang đảm nhiệm, họ có vượt qua nổi những cái bẫy đang giăng ra với họ hay
không? Tôi rất thông cảm với họ và tôi hiểu thật không dễ chút nào, bởi vì
trong mỗi con người chúng ta đều có phần «con»
tầm thường và phần «người» cao quý,
chưa nói đến sự chênh lệch đáng kể về trình độ giáo dục và trải nghiệm cuộc
đời. Bởi vậy, ứng xử, tiến lui cho khéo là cả một bài toán khó và rất cần sự
trợ giúp của Thánh nhân ở nơi xa và bè bạn ở gần bên. Riêng tôi, tôi muốn
khuyên mọi người rằng đừng vội vã kết luận điều gì khi vừa chợt nhìn thấy một
hình ảnh chướng mắt, hoặc vừa nghe thấy một tin đồn chưa thuận tai. Hãy tập nén
mình lại và hãy «nhìn sâu» vào bên
trong, ta sẽ thấy nhiều điều và nắm bắt được cái sẽ đến ngày mai.
Ngày mai mới là quan trọng.
Các cụ có câu rằng «cây ngay không
sợ chết đứng», vậy nếu thấy cái cây chưa thật ngay, ta có để cho nó chết
đứng hay không? Hẳn là không. Nếu cứ mặc kệ cho cây chưa ngay chết hết, thì ta
là cây ngay, ta đứng lại với ai?
Trần Thanh Vân
HC Mạng Bauxite Việt Nam
biên tập
Bauxitevietnam.info đã bị đánh sập từ cuối 2009. Đây là nguồn của cả 2
bài:
No comments:
Post a Comment