Phó
Tổng Giám Mục Saigon
Francis
Nguyễn Văn Thuận:
Vị
Giáo Sĩ Bị Tù Không Bản Án
Hà Minh Thảo
14/Sep/2019
Ngày 30 tháng 4, 1975, tất cả gần
30 Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục và Hội Đồng Giám mục Việt Nam đều ở lại với
các con chiên.
Cộng sản đưa Tổng Giám mục Francis
Nguyễn Văn Thuận ra Bắc nhốt trong tù 13 năm. Tháng 11 năm 1988, Cộng sản thả
ra cho đi chữa bệnh vì sắp chết và cấm không cho Ngài về nước.
Ngày 16. 09. 2019, chúng ta kỷ niệm
Lễ Giỗ lần thứ 17 Ðức Hồng Y Phanxicô Xavier Nguyễn Văn Thuận. Ngày 04. 05. 2017,
Bộ Phong Thánh đã công bố sắc lệnh nhìn nhận Vị Tôi Tớ Chúa này đã thực hiện
các nhân đức ‘đến mức độ anh hùng’ để từ ngày đó, Ðức cố Hồng Y P.X. Nguyễn Văn
Thuận được mang tước hiệu ‘Đấng Đáng Kính’ (Venerabile).
I. Trung thành bài sai Thánh Giáo Hoàng Phaolô
VI.
Ngày 07.01.1975, khi tỉnh Phước
Long, một địa điểm chiến lược như cửa ngõ vào Sài Gòn, thất thủ, đe dọa sự sống
còn của miền Nam nước Việt. Trước tình hình quân sự như vậy, Ðức cha Henri
Lemaitre, Khâm sứ Tòa Thánh tại Việt Nam đã trao đổi với Ðức cha Phao lô Nguyễn
Văn Bình, Tổng Giám mục Sài Gòn để phải tìm một Giám mục phó với quyền kế vị
đáp ứng một tiêu chuẩn không trẻ nhưng cũng không quá lớn tuổi và tuân theo ý
muốn có ‘tinh thần sống chung và hợp tác với chính quyền mới’ của Ðức Thánh Cha
Phao lô VI.
Mãi đến hơn 3 tháng sau, ngày 25. 04.
1975, điện tín từ Vatican gửi đến Sài Gòn mới
xác nhận việc bổ nhiệm này. Lúc đó, Nha Trang đã rơi vào tay nhà nước cộng sản
Bắc Việt. Mọi liên lạc với Ðức cha Nguyễn Văn Thuận đều bị cắt đứt. Do đó, mãi
đến ngày 07.05.1975, Tòa Tổng Giám mục Sài Gòn mới tiếp nối được liên lạc với Ðức
cha Nguyễn Văn Thuận để yêu cầu Người vào ngay Sài Gòn. Vào được Sài Gòn, Ðức
cha Nguyễn Văn Thuận được hỏi ý kiến về việc bổ nhiệm này và nếu ưng thuận thì
bàn giao sứ vụ Giám mục Nha Trang cho Ðức cha Phao lô Nguyễn Văn Hòa. Cùng ngày
07.05.1975, Đức cha Thuận, trong Tâm Thư gởi cho hàng giáo sĩ, tu sĩ, giáo dân
Giáo phận Nha Trang, đã viết: «Ngày 24.05.1975, Đức Thánh Cha Phaolô VI thuyên
chuyển tôi về làm Tổng giám mục phó Sài Gòn với quyền kế vị, bổn phận tôi là
cúi đầu tuân phục quyết định tối thượng của Đức Thánh Cha».
Ngày 12.05.1975, Tòa Tổng Giám mục
Sài Gòn chính thức loan báo tin bổ nhiệm Ðức cha Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận
vào chức vụ Tổng Giám phó với quyền kế vị.
Cái gọi là ‘Nhóm Cấp Tiến’ bao
nhiêu gồm trên dưới 20 ‘vị’ không đại diện cho ai và cũng không trực tiếp quản
nhiệm các giáo xứ. Nhưng vì họ là thành phần trí thức liên lạc trực tiếp và ảnh
hưởng tới những quyết định của Ðức Tổng Giám mục về cả về phạm vi Đạo lẫn Đời. Sau
30.04.1975, tiếng nói của họ rất có trọng lượng, tay sai đắc lực cho ‘cách mạng.
Cộng sản Việt rất xảo quyệt đã ‘đánh thắng Mỹ’, giờ đây, sử dụng Giáo sĩ và
Giáo dân Công Giáo để khởi đầu việc trục xuất Ðứùc Khâm sứ Tòa Thánh khỏi Việt
Nam và Ðức Tổng Giám mục phó về Nha Trang và, sau đó, 13 năm tù… Tiếng nói của
họ trở thành tiếng nói áp đảo, ngầm chứa đe dọa đối với những ai không theo họ.
Những người sau này vào cái thế của đa số thầm lặng như quy luật của các ‘trò
chơi chính trị’.
Theo đó, đã có một buổi họp tại
Câu Lạc bộ Phục Hưng ngày 08.05.1975, khoảng 20 linh mục đã soạn thảo thư gửi Ðứùc
Khâm sứ, Ðức Tổng giám mục Bình và Đức cha Thuận. Họ gồm các linh mục sau đây: Nguyễn
Huy Lịch, Chân Tín, Trần Viết Thọ, Nguyễn Văn Trinh, Huỳnh Văn Huệ, Trần Xuân
Lai, Nguyễn Quang Lãm, Đinh Bình Ðịnh, Trần Thái Hiệp, Nguyễn Thiện Toàn, Hoàng
Kim, Nguyễn Văn Hòa, Trương Bá Cần, Huỳnh Công Minh, Hoàng Văn Thiên, Thanh
Lãng, Vương Đình Bích.
Ngày 12.05.1975, lại có một buổi họp
khác và đã đề cử những người sau đây đi gặp Tổng Giám mục Bình và Giám mục Thuận
gồm 8 người, trong đó có Thanh Lãng, Hoàng Kim, Vương Đình Bích, Phan KhắcTừ…
Trong phiên họp ngày thứ sáu 27.06.1975,
tại Dinh Ðộc lập cũ (Trụ sở Ủy ban Quân quản Thành phố Sài Gòn – Gia Định), kéo
dài từ 15 đến 19 giờ, Ðức cha Nguyễn Văn Thuận đã đối diện với ba Cán bộ cao cấp
của Ủy ban Quân quản cùng các người Công Giáo. Ðối với Chính quyền cộng sản, sự
thuyên chuyển độ một tuần trước khi họ tiếp thu Sàigòn vào ngày 30.04.1975, là
bằng cớ âm mưu giữa Vatican và các Ðế quốc. Ðể
trả lời sự cáo buộc đó, Người đã lập lại sự vâng phục trên: « Đã được bổ nhiệm,
thì tôi bó buộc phải vâng lời, không thể làm khác ».
Một người trong ‘Nhóm Cấp Tiến’, linh
mục Thanh Lãng cho rằng không thể chấp nhận Tổng Giám mục phó Nguyễn Văn Thuận
đứng đầu Giáo phận là vì ông là Giám mục ‘nổi tiếng chống cộng’. Đó là một sự
phản đối hoàn toàn mang tính chính trị.
[Xin ghi nhận. Lm. Thanh Lãng đã kể
lại sự việc từ lúc bắt đầu như thế nào trong tài liệu đánh máy 39 trang, đã hối
hận và xin thứ lỗi về việc đã làm đối với Ðức Hồng Y Ðáng Kính P. X. Nguyễn Văn
Thuận, trước khi chết].
Linh mục Trần Du đã biện luận trước
Ủy ban Quân quản: «Quyết định bắt Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận rời Sài Gòn
không thể thi hành được. Hai triệu dân Công Giáo không chấp nhận. Đức Giám Mục
Nguyễn Văn Thuận không có quyền từ chức. Vậy thì chính quyền có thể giết Ngài, có
thể giết cả tôi, có thể bỏ tù Ngài hay bỏ tù tôi, nhưng không thể tự ý trục xuất
Đức Giám Mục Nguyễn Văn Thuận ra khỏi Sài Gòn».
Có người cho rằng nếu Toà Thánh sớm
đã bổ nhiệm để Ðức cha Nguyễn Văn Thuận đã có mặt tại Sài Gòn trước ngày 30. 04.
1975 thì mọi chuyện đã yên ổn với chủ nhân mới Sài Gòn. Mọi chuyện không đơn giản
như vậy vì sau đây là lý do thứ hai và chính yếu vì các Ðức cha khác không Vị
nào có.
II. Cháu ông Ngô Ðình Diệm
Ðó là một lý do không ai trong
chúng nghĩ đến, nhưng đó là Sự Thật mà Người Mỹ và những kẻ gây ra ngày 01.11.1963
đã giúp cộng sản chiến thắng ngày 30.04.1975. Chúng ta hãy bóp óc suy nghĩ đi…
1. - Ngày 15.08.1975, Ủy ban Quân
quản mở cuộc họp tại Nhà hát Thành phố để cáo buộc tội Ðức cha Nguyển Văn Thuận
‘sau lưng’ Người. Khoảng 350 giáo sĩ, tu sĩ được mời buộc nghe. Ủy ban Quân Quản
muốn ngừa tránh mọi phản ứng của người dân đối với vụ bắt Ðức cha Thuận. Trước
đó, Đức Tổng Giám Mục Nguyễn văn Bình và Đức Tổng Giám Mục phó được đưa đến
Dinh Độc Lập lúc 14 giờ. Tại đó, khi đi qua hành lang để đến phòng họp, Ðức cha
Bình đi trước, Ðức cha Thuận đi sau. Lúc đó, một công an chận Ðức cha Thuận lại
và nói: ‘Anh đi lối này’ và lôi Người đi mất luôn. Khoảng 30 phút sau, do chỉ
thấy tướng Trà nói chuyện vu vơ, Ðức cha Bình hỏi: - Thưa Thượng tướng, còn
chuyện gì cần nữa không?
Tướng Trà trả lời:
- Thôi! Cụ ra về được rồi.
- Ðức cha phó của tôi đâu mời Ngài
cùng về.
- Như cụ thấy, chế độ này là chế độ
Cộng sản. Tên Thuận là dòng dõi Ngô Ðình Diệm, chúng nó chống Cách mạng từ
trong trứng chống ra, nên không thể để nó ở đây được.
Sau đó, Ðức cha Thuận bị bắt và
đem đi trên một xe hơi có hai công an kèm theo. Trong cuộc hành trình dài 450
cây số, trên đường không có một ai. Ðức cha biết mình đang mất tất cả. Ra đi với
chiếc áo chùng thâm trong túi có một cỗ tràng hạt. Người chỉ còn biết phó thác
cho Chúa Quan Phòng. Giữa bao lo âu ấy, Người vẫn thấy có một niềm vui lớn: ‘Hôm
nay là lễ Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời… ’ và Chúa muốn Ðức cha hãy trở về với điều cốt
yếu. Sau đó, Ðức cha đã bị giam giữ nhiều nơi khác nhau, trong đó, có 9 năm bị
biệt giam, cho đến ngày 23. 11. 988, được thả tự do và bị quản chế tại Hà Nội.
2. - Năm 1993, nhân việc bổ nhiệm
Ðức cha Nicolas Huỳnh Văn Nghi, Giám mục Phan Thiết về nhận niệm vụ Giám quản
Sài Gòn, ngày 22.09.1993, ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch Uûy ban Nhân dân Thành
phố, đã gửi thư cho Ðức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình có nhắc lại việc bổ nhiệm
Ðức cha Nguyễn Văn Thuận như sau: «… Như cụ đã biết, năm 1975 Chính phủ ta đã
không chấp nhận ông Nguyễn Văn Thuận về Giáo phận thành phố và dứt khóat sẽ
không bao giờ chấp nhận, vì ông Nguyễn Văn Thuận đã từng gắn bó với một gia
đình có nhiều nợ máu với nhân dân và bản thân ông Nguyễn Văn Thuận cũng có một
quá trình lâu dài và tinh vi chống phá sự nghiệp giành độc lập và bảo vệ độc lập
dân tộc… ».
3. - Ngày 05.07.2013, tiến trình
phong Chân Phước cho Vị Tôi Tớ Chúa đã hoàn thành ở Tổng Giáo phận Rôma. Nhân dịp
này, nhà phê bình văn học Nguyễn Hoàng Ðức, được Hội đồng Giáo Hoàng Công lý và
Hòa bình mời tham dự lễ ‘Bế mạc phần điều tra tại Giáo phận’, đã bị công an sân
bay Nội Bài, Hà nội chặn lại không cho xuất cảnh sang Bangkok (Thái lan) trên
đường đi Rôma (Ý đại lợi). Ông Ðức kể cho ông Mặc Lâm, phóng viên Ðài Á châu Tự
do RFA biết: «Khi làm ở Phòng Tôn giáo Bộ Công an, người ta có ‘đối sách’ về Ðức
cha vì một tội rất to là cháu của Ngô Ðình Diệm và sự về Sài gòn làm Phó Tổng
Giám mục là để lót ổ lên Tổng Giám mục nên Người bị chuyển ra Bắc». Tại sao, với
hai ‘tội nặng’ này và bị giam giữ 13 năm, trong có những năm biệt giam, nhưng đảng
cộng sản không dám đem Ðức cha ra tòa xét xử?
Trong thời gian 13 năm ở tù không
bản án, bắt chước Thánh Phaolô, Cha đã viết thư cho các giáo đoàn về kinh nghiệm
sống Ðức Tin, Mục vụ, Tu đức. Ðó là ba tập sách:
- Ðường hy vọng (1975) ;
- Ðường hy vọng dưới ánh sáng Lời
Chúa và Cơng Đồng Vatican II (1979) ;
- Những người lữ hành trên Ðường
Hy Vọng (1980).
III. Thi hành sứ vụ tuyên úy trong lao
tù
1-
Trại tù khổ sai.
Ở trại Phú Khánh, Ðức cha bị giam
trong một phòng không có cửa sổ, phải đi qua ba lớp cửa trong một hành lang mới
đến khí trời. Vào đó nóng cực kỳ, tôi ngột ngạt và cảm thấy trí óc mất sáng suốt
dần dần, cuối cùng là mê man. Có lúc người ta để đèn sáng như ban ngày, lúc
khác lại nằm trong bóng tối. Buồng vừa nóng vừa ẩm, đến nỗi tôi xuống nằm dưới
nền, còn nấm thì mọc lên trắng cả chiếc chiếu của tôi. Lúc nằm trong tối tăm, tôi
thấy có một lỗ dưới vách, ánh sáng lọt vào, tôi lết đến, kê mũi vào đó để thở. Lúc
nào trời mưa, nước ở ngoài ngập, những con trùng ở ngoài bò vào, có cả giun và
có lần có cả con rết dài; dù thấy vậy, nhưng tôi yếu mệt quá không làm gì được,
tôi cứ để cho chúng bò quanh, ngày nào nước xuống, thì chúng lại bò ra. Sau này
hai linh mục bị giam cách tôi hai lớp cửa, đã thuật lại cho tôi biết: “Một hôm
cô Thanh, cấp dưỡng, đã mỡ cửa cho chúng con ra đứng nhìn Ðức Cha nằm dưới đất
và bảo: cho hai anh nhìn thấy ông Thuận, ông sắp chết!” Nhưng trong cơn cơ cực
này, Chúa đã cứu tôi!
Tôi phải chọn Chúa chứ không phải
việc của Chúa: Chính Chúa muốn cho tôi ở đây, chứ không phải nơi khác.
2.
Của nuôi phần Hồn.
«Khi bị bắt, tôi phải ra đi tay
không, đi ngay lập tức. Ngày hôm sau, tôi được phép viết cho những người thân để
xin những thứ cần thiết nhất như áo quần, kem đánh răng,… Tôi viết: “Xin vui
lòng gửi cho tôi một chút rượu thuốc để chữa bịnh đường ruột”. Các tín hữu hiểu
ngay. Họ gửi cho tôi một chai nhỏ đựng rượu lễ, bên ngoài có ghi ‘Thuốc chữa bịnh
đường ruột’, còn bánh lễ thì họ giấu trong một ống nhỏ chống ẩm thấp».
Giám thị hỏi tôi:
- Ông bị bịnh đường ruột?
- Phải.
- Ðây, có ít thuốc cho ông đây.
Tôi không bao giờ có thể diễn tả hết
hết niềm vui lớn lao của tôi: mỗi ngày, với ba giọt rượu và một giọt nước trên
lòng bàn tay, tôi cử hành Thánh Lễ. Và đó cũng là bàn thờ, là nhà thờ chính tòa
của tôi! Ðó là liều thuốc đích thực cho linh hồn và thân xác tôi: «thuốc trường
sinh bất tử, thuốc giải độc để khỏi chết, nhưng luôn được sống trong Chúa Giêsu»,
như Thánh Ignatio thành Antiokia đã nói.
Mỗi lần như thế tôi được dịp giang
tay và đóng đinh mình vào thập giá với Chúa Giêsu và cùng Ngài uống chén đau khổ
nhất. Mỗi ngày, khi đọc lời truyền phép, với tất cả tâm hồn, tôi làm lại một
giao ước mới, giao ước vĩnh cửu giữa tôi và Chúa Giêsu, hòa lẫn Máu Ngài với
máu của tôi. Ðó là những Thánh Lễ đẹp nhất trong đời tôi!
Tuy nhiên, cách dâng lễ mỗi nơi mỗi
khác. Dưới hầm tàu thủy chở tôi ra miền Bắc, ban đêm tôi ngồi giữa mấy bạn tù, bàn
thờ là túi cói đựng đồ, dâng lễ thánh Phanxicô quan thầy của tôi và cho các bạn
chịu lễ. Lúc ở trại Vĩnh Quang, tôi phải dâng lễ trong góc cửa ban sáng lúc người
ta đi tắm sau giờ thể dục. Lúc đã quen với thời khóa biểu của trại, tôi dâng lễ
ban đêm, vì chúng tôi được chia thành từng đội 50 người, ngủ chung trên một
láng gỗ, mỗi người được 50 cm, đầu đụng nhau, chân quay ra ngoài. Chúng tôi đã
thu xếp để năm anh em Công Giáo nằm quanh tôi. Ðến 9 giờ rưỡi đêm, nghe tiếng kẻng
là tắt đèn và mọi ngươi phải nằm trong mùng muỗi cá nhân: tôi ngồi cúi sát xuống
để dâng lễ thuộc lòng. Tôi đưa tay dưới mùng để chuyển Mình Thánh cho anh em chịu
lễ. Chúng tôi nhặt lấy giấy nylon bọc bao thuốc hút để làm những túi nhỏ đựng
Mình Thánh. Như thế Chúa Giêsu luôn ở giữa chúng tôi. Chúng tôi tin một sức mạnh:
Thánh Thể. Thịt Máu Chúa làm cho chúng tôi sống. «Ta đã đến là để chúng được có
sự sống, và sống một cách dồi dào» (Ga 10,10). Như manna nuôi dân Do Thái đi đường
về Ðất hứa, Thánh Thể sẽ nuôi con đi cùng đường Hy vọng (Ga 6,53).
Mỗi tuần, sáng thứ sáu có buổi học
tập, tất cả 250 anh em phải tham dự. Ðến lúc xả hơi, các bạn Công Giáo thừa dịp
đó mang các túi nylon đựng Mình Thánh đến chia cho bốn đội kia, mỗi người thay
nhau mang trong túi áo một ngày…
Những người tù biết có Chúa Giêsu
Thánh Thể đang ở giữa trại tù với họ. Chính Ngài an ủi, xoa dịu những khổ đau
thể xác và tinh thần; chính Ngài thêm can đảm chịu đựng cho họ. Ban đêm, họ
thay phiên nhau làm giờ thánh. Sự hiện diện thinh lặng của phép Thánh Thể biến
đổi họ cách lạ lùng. Nhiều người Công Giáo trở lại sống đạo đức hơn; nhiều anh
em không Công Giáo tìm hiểu Phúc âm và lãnh phép Thánh tẩy trong trại cải tạo, hoặc
sau lúc được tự do. Nhà tù trở thành trường dạy giáo lý. Không có gì cưỡng lại
được tình yêu Chúa Giêsu. Ðêm tối của ngục tù trở thành ánh sáng, hạt giống đã
đâm chồi dưới đất đang lúc trời giông tố phong ba. Những ơn trọng này do Chúa
Giêsu Thánh Thể chứ không phải do sức loài người.»
3.
Thiết lập Tình Người trong lao tù.
Trong ngục tù chủ nghĩa vô thần ngụy
trang trại cải tạo đầy hận thù, nhờ Ơn Chúa Thánh Thần, Ðức cha Nguyễn Văn Thuận
đã có thể kết bạn với cai ngục, những người quen hành hạ tù chính trị bằng nhục
hình hoặc các biện pháp tâm lý ác hiểm. Đức cha kể: «Ở trại giam Phú Khánh, một
đêm tôi đau quá, thấy một người gác đi qua, tôi kêu: ‘Tôi đau quá, xin anh
thương tình cho tôi thuốc! ’ Anh ta đáp: ‘Ở đây chẳng có thương yêu gì cả, chỉ
có trách nhiệm’. Đó là bầu khí chúng tôi ở trong tù.»
Một đêm đông lạnh quá, không ngủ
được, tôi nghe có tiếng nhắc: «Tại sao con dại thế? Con mang tình thương Chúa
Giêsu trong tim con. Hãy yêu thương họ (cai tù) như Chúa Giêsu đã yêu con». Sáng
hôm sau, Ðức cha bắt đầu mến họ, yêu mến Chúa Giêsu trong họ, tươi cười với họ,
trao đổi đôi ba câu nói… Ngài tìm cách trò chuyện, khơi gợi sự tò mò nơi cai ngục:
- Lúc bị biệt giam, trước tiên người
ta trao cho năm người gác Ðức cha: đêm ngày có hai anh trực. Cứ hai tuần đổi một
tổ mới, để khỏi bị tôi làm nhiễm độc. Một thời gian sau không thay nữa, vì ‘cấp
trên’ nói: «Nếu cứ thay riết thì sở công an bị nhiễm độc hết!». Thật vậy, để
tránh nhiễm độc, mấy anh không nói với tôi, chỉ trả lời ‘có’ hoặc ‘không’. Người
muốn lịch sự vui vẻ với họ, họ vẫn lạnh lùng. Phải chăng họ ghét ‘cái mác phản
động’ nơi Người: Tất cả áo quần đều đóng dấu hai chữ lớn ‘cải tạo’, kể từ ngày
bước chân vào trại Vĩnh Quang ở Bắc Việt…
- Tôi thuật lại những chuyến đi ra
nước ngoài, cuộc sống, văn hóa, kinh tế, khoa học kỹ thuật, tự do dân chủ ở
Canada, Nhật Bản, Pháp, v.v… Những câu chuyện đó kích thích tính tò mò của họ, giục
họ đặt nhiều câu hỏi. Tôi luôn luôn trả lời… Dần dần chúng tôi trở thành bạn. Họ
muốn học sinh ngữ Anh, Pháp… tôi giúp họ. Từ từ họ trở thành học trò của tôi! Bầu
khí nhà giam đổi nhiều, quan hệ giữa họ với tôi tốt đẹp hơn. Thậm chí cả những
ông xếp công an, thấy tôi đối xử chân thành, không những họ xin tôi giúp các
chiến sĩ học hành ngoại ngữ, nhưng họ còn gửi anh khác đến học.
Ðức cha sống theo lời Chúa Giêsu dạy:
«Điều gì con làm cho một người bé mọn nhất trong anh em là làm cho chính mình
Ta».
IV. Người tù không bản án
Bị bỏ tù không bản án thì việc ra
khỏi nhà tù cũng ‘không giống ai’, Ðức cha đã viết trong ‘Năm Chiếc Bánh và Hai
Con Cá’ như sau: «Một hôm trời mưa, tôi đang thổi cơm trưa, tôi nghe điện thoại
của chiến sĩ trực reo. ‘Biết đâu có tin gì cho tôi? Ðúng rồi, bữa nay là lễ Ðức
Mẹ dâng mình vào đền thánh, 21 tháng 11 mà! ’. Năm phút sau, anh chiến sĩ trực
đến:
- Ông Thuận ơi, ông ăn chưa?
- Chưa ạ, tôi đang thổi cơm đây.
- Ăn xong, ăn mặc sạch sẽ, đi gặp
lãnh đạo.
- Lãnh đạo là vị nào vậy?
- Tôi không biết, tôi chỉ được báo
thế. Chúc ông may mắn.
Tôi đã được đưa đến nhà khách
chính phủ, bên hồ Ha-le, và tôi đã gặp ông Mai Chí Thọ, Bộ trưởng Nội vụ (Bộ
công an). Sau lời chào hỏi xã giao, ông Bộ trưởng đã hỏi:
- Ông có nguyện vọng gì không?
- Thưa có, tôi muốn được tự do.
- Bao giờ?
- Hôm nay.
Ông Bộ trưởng có vẻ ngạc nhiên, thường
tình phải có thời gian cho cơ quan nhà nước xếp đặt… Nhưng hôm nay là lễ Ðức Mẹ
nên tôi tin chắc và xin như vậy. Ðể đánh tan bầu khí lúng túng và ngạc nhiên ấy,
tôi nói:
- Thưa ông Bộ trưởng, tôi ở tù lâu
lắm, suốt ba đời Giáo hoàng: Phaolô VI, Gioan Phaolô I, và Gioan Phaolô II. Về
phía xã hội chủ nghĩa thì tôi đã ở tù bốn đời Tổng Bí thư Liên Xô: Brezhnev, Andropov,
Chernenko, và Gorbachev.
Ông Bộ trưởng bật cười và nói:
- Ðúng! đúng!
Ông quay qua bảo người bí thư:
- Hãy liệu đáp ứng nguyện vọng của
ông.
Trong lòng tôi vui mừng tạ ơn Ðức
Mẹ Maria, vì không những được tự do mà còn được cả dấu chỉ. Chắc Mẹ tha tội tôi
cả gan thách đố Mẹ.»
Từ khi còn ở trong nước hay lúc
bôn ba nơi đất người, rất nhiều lần khi còn là Ðức cha hay Ðức Hồng Y, Giáo sĩ
P.X. Nguyễn Văn Thuận đã yêu cầu nhà nước Việt Nam đưa Người ra trước Tòa án
nhân dân để được biết: Tại sao Người đã bị giam tù trong 13 năm? Tội thứ nhất
thì vô lý, Tội thứ hai thì nực cười.
MỜI ÐỌC THÊM:
Ngày 02.11.1963, khi nhận hung tin
hai người cậu Ngô Ðình Diệm và Ngô Ðình Nhu bị thãm sát, Linh mục P.X. Nguyễn
Văn Thuận không tin một người như Diệm lại phải chết thê thãm như thế và Cha rất
phẩn uất.
Hiền mẫu của Cha, bà Ngô Ðình Thị
Hiệp, tìm cách trấn an con và đưa về Sự Thật bằng những lời lẽ ôn tồn. Cha quan
sát mẹ, sức lực còn tốt trước những đau đớn bà phải chịu. Bà đứng dậy và đi đến
bàn làm việc, mở ngăn kéo để rút ra một tờ giấy trắng. Bà kéo tay con vào nhà
nguyện và nói: «Ðã đến lúc con phải đọc tờ này. Mẹ đã cất giữ một thời gian khá
dài».
Cha Thuận ngừng nơi cửa nhà nguyện
để đọc. Cha nhận ngay những dòng chữ của cậu Diệm, đơn sơ như chữ trẻ viết, rõ
ràng, những chữ O thật tròn, các khoản cách đều đặn. Ðây là bản chính ghi những
lời Tuyên khấn ngày 01.01.1954 tại tu viện Thánh André ở Bruges Bỉ) ở bậc oblat
dòng Thánh Benoit. Văn kiện ghi rõ tên thánh của Cậu là Odilon. Đôi tay Cha run
lên. Thật tự nhiên khi Cậu chọn tên này mà lễ mừng đúng ngày 01.01. hàng năm.
Sự chọn này còn là một điều tiên
tri? Thánh Odilon là Thánh Bổn mạng những người Tị nạn và những người Lánh nạn,
và Tổng thống Diệm đã nổ lực hoàn thành trong 9 năm (1954 – 1962) để giúp gần một
triệu người Việt Miền Bắc vào lập nghiệp ở Miền Nam Tự do. Thánh Odilon, đồng
thời, là Ðấng Sáng lập Lễ các Ðẳng Linh hồn, ngày ông Diệm trở về Nhà Cha.
Bà Hiệp nói, bằng một vọng nhẹ ‘Cậu
con đã hiến trọn đời cho Tổ Quốc. Thật không gì bất thường cho sự Vị Quốc Vong
Thân. Là người đã khấn cho Thiên Chúa. Như vậy, không có gì là quá đáng khi Chúa
gọi Cậu về Nhà Cha. Thuận cúi đầu vâng lời và đi theo Mẹ vào Nhà Nguyện và nghĩ
rằng: «Lạy Chúa, con tin rằng Chúa đã chết trong tay Con Người. Sự chết đã cứu
rỗi Con. Nhưng vì những lý do nào mà Cậu con đã phải chết như thế?».
Cha Thuận ngước nhìn Mẹ. Bà bình
tĩnh trước sự tàn sát dã man và sự qua đời của hai Anh mình. Bà đang quỳ cầu
nguyện…
Ngày 14. 09. 2019
Lễ Suy Tôn Thánh Giá
Hà Minh Thảo
No comments:
Post a Comment