Luận về Nghệ Thuật Lãnh Đạo
Trần Xuân Thời
Lãnh đạo đòi hỏi sự biến ứng, đa
năng và đa hiệu, thích ứng với hoàn cảnh vô thường của cuộc sống. Ví
phỏng mọi người bình thường đều có tiềm năng lãnh đạo ngang nhau, nhưng nếu
tiềm năng không được trao dồi và phát triển thì khó có thể trở thành người lãnh
đạo. Những người có khả năng lãnh đạo thực sự là những người tạo dựng được hoàn
cảnh và thời thế. Là những người tổ chức được đoàn thể, quy tụ được nhiều thành
phần hưởng ứng chủ trương đường lối phục vụ nhân sinh và thực hiện được chương
trình kế hoạch đã định.
Lãnh đạo khác với chỉ huy, mặc dù
kinh nghiệm chỉ huy giúp ích rất nhiều cho vấn đề lãnh đạo. Các trưởng cơ quan
hay đơn vị thường được gọi là chỉ huy trưởng, trưởng cơ sở… đảm nhiệm vai trò
điều hành một đơn vị để phối trí và thực hiện một số công tác chuyên môn do
luật định, nghĩa là những người chỉ huy phải chu toàn nhiệm vụ trong khuôn khổ
quyền hạn và trách nhiệm đã được quy định…
Nhiều người lấy làm thắc mắc vì sao
trong 50 năm tỵ nạn, một số người có chức cao quyền trọng trong xã hội Việt Nam
Cộng Hòa, ít thấy xuất hiện để cứu dân độ thế. Lý do là trong các sinh hoạt
quốc gia, các nhân viên phục vụ trong các ngành dân, quân, cán, chính, thường
sống lâu ra lão làng, được bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy nếu hội đủ một số
tiêu chuẩn do quy lệ ấn định. Các cấp chỉ huy, trưởng cơ quan có nhiệm vụ và
khả năng chuyên môn hạn chế tùy từng ngành riêng biệt. Trong kinh nghiệm chỉ
huy đó, có người chỉ có khả năng sinh hoạt trong ngành chuyên môn của mình, có
người có khả năng sinh hoạt trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
Những người có khả năng sinh hoạt
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, tự học hỏi và thăng tiến có triển vọng trở
thành những người lãnh đạo. Lãnh đạo đòi hỏi sự biến ứng, đa năng và đa hiệu,
thích ứng với hoàn cảnh vô thường của cuộc sống. Người lãnh đạo khác với
người thường là quyết định của họ sẽ ảnh hưởng đến sự hình thành quyết định của
người khác. Ý kiến của họ giúp được nhiều người khác thăng tiến sự hiểu biết.
Thái độ xử thế của họ có thể tạo nên thái độ mẫu mực cho người khác noi theo.
Người lãnh đạo là người có “NHÂN”,
Thể hiện qua tinh thần nhân ái, hợp tác với các cộng sự viên và người đồng hành
để thực hiện lý tưởng.
Người lãnh đạo là người có “TRÍ”
với sáng kiến, có đủ khả năng để quyết định những công tác hữu ích cho đoàn
thể, cho cộng đồng, cho nhân quần xã hội.
Người lãnh đạo là người có “DŨNG”
can đảm thực hiện sáng kiến hữu ích; không lùi bước trước gian nguy thử thách.
Người lãnh đạo là người có khả năng chấp nhận rủi ro và nguy hiểm. Khi làm việc
phải, có thể bị chống đối một cách phi lý. Người lãnh đạo phải biết quan sát và
nhận xét, phân biệt phải trái để hành động. Người lãnh đạo phải biết tu thân và
phục vụ công lý trong tinh thần cần, kiệm, liêm, chính. “Phú quý bất năng
dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất”. Người lãnh đạo biết tiến,
thối, chuẩn bị chu đáo, tạo hoàn cảnh và hành động thuận theo thiên thời, địa
lợi, nhân hòa.
Người lãnh đạo là người có tinh
thần trách nhiệm, can trường thực hiện sứ mệnh, không lùi bước trước thử thách,
không làm điều trái với lương tâm. Người lãnh đạo là người bảo vệ sự chính đáng
và chính danh trong hành động.
“Vì danh bất chính thì ngôn bất thuận và ngôn bất thuận thì sự
chẳng thành.”
Người lãnh đạo thành thực với chính
mình, biết bồi ưu và biết bổ khuyết; biết sống và hành động theo lý tưởng phục
vụ nhân quần xã hội. Người lãnh đạo là người độ lượng, có lòng bác ái, từ bi, hỷ xả nói lên lòng
nhân đạo, tình yêu nhân hậu đối với nhân quần xã hội.
Đức Khổng Tử thường nói: “Vi thiện
giả, Thiên báo chi dĩ phúc. Vi bất thiện giả, Thiên báo chi dĩ họa”. Làm điều
lành thì Trời lấy phúc mà báo cho. Ngược lại, làm điều chẳng lành thì Trời lấy
vạ mà báo cho. Nói khác đi “Thiện ác đáo đầu chung hữu báo”.
Do đó, người lãnh đạo tốt luôn luôn
nghĩ đến điều thiện “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi.” Một
ngày mà không nghĩ đến điều thiện, thì mọi điều ác tự dấy lên. Những người có
tiềm năng lãnh đạo, mà có lòng nhân thì tâm thường an lạc.”tâm sanh tướng”.
Nhờ sự bình an trong tâm hồn mà trí tuệ được sáng suốt, minh mẫn, có thể được
thư thái, không lâm vaò trạng thái hỉ, nộ, ái, ố thất thường. Nhờ sự thư thái
về thể xác, minh mẫn về tinh thần, “Hồn lành trong xác mạnh”. Người lãnh
đạo phát kiến được nhiều chương trình, kế hoạch hữu ích cho nhân quần xã hội,
thoát hiểm cho cộng đồng, cho quốc gia dân tộc.
Những đức tính tự nhiên của người
lãnh đạo có thể do bản chất “Thông minh vốn sẵn tính Trời”, hoặc do tự tô bồi
bởi sự cố gắng học hỏi, tu luyện: “Văn ôn, võ luyện”. Thế thượng thường tình.
Không có hoa hồng nào mà không có gai. Không có kết quả nào mà không do sự khổ
công tu luyện. Muốn trở thành một người lãnh đạo cần phải can đảm dám từ
bỏ tự cao, tự đại, tự mãn, cần phải áp dụng đức bác ái, từ bi, hỷ xả trong đời sống
hàng ngày, để từ bỏ tính ích kỷ cá nhân. Muốn được vậy, phải luôn luôn học hỏi qua
kinh điển, sách vở, báo chí, dụ ngôn, để hiểu biết lẽ sống của con người, giá
trị của cuộc đời rồi mới hiểu được chân, thiện, mỹ mà tự cải tiến tâm hồn.
Một yếu tố đáng lưu ý của những nhà
lãnh đạo Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ là những người đã từng đọc thật nhanh và đọc
rất nhiều sách. Theo thống kê, có người đọc 700 chữ một phút và đọc ít nhất 30
cuốn sách một tháng.? Nếu thế thì chẳng bao lâu có thể thu tóm “Bốn bồ chữ của
thiên hạ về một mối” Cao Bá Quát có sống lại cũng không địch nổi, dù ông có tự
khoe trong thiên hạ có bốn bồ chữ, ông và gia đình chiếm hết ba bồ, còn lại một
bồ cho thiên hạ…!
Lý do rất dễ hiểu là kiến thức thu
thập ở ghế nhà trường, các quân trường, các lớp huấn luyện có tính cách hạn hẹp
và chuyên môn, vài năm sau sẽ bị lỗi thời (obsolete), nếu không được câp nhật
hoá. Do đó, vấn đề tu nghiệp rất quan trọng trong mọi ngành sinh hoạt hiện nay
tại Hoa Kỳ và các quốc gia tân tiến. Nếu không có tu nghiệp (continuing
education) tức là không có tiến bộ, không thu nhận được kiến thức mới tức là
thoái hoá…
Những người có thiện chí lãnh đạo
cần phải trao đổi và cập nhật hoá kiến thức, hiểu biết rộng rãi về mọi ngành
sinh hoạt của quốc gia. Không phải để trở thành chuyên viên, hiểu biết về một
ngành sinh hoạt, mà phải có kiến thức tổng quát để quản trị, để vạch chính sách
chung cho mọi ngành sinh hoạt. Câu nói: “Một ngày không đọc sách, soi gương tự
thẹn, hai ngày không đọc sách, nói chuyện nhạt nhẽo khó nghe” thật là chí lý.
Ngoài những đức tính tự nhiên,
người lãnh đạo là người có đời sống tinh thần phong phú. Người lãnh đạo là
người sống với đức tin: Lòng tin chở được núi. Với đức tin mọi việc hữu ích sẽ
được hoàn thành một cách thoải mái. Sống trong đức tin là sống trong sự cải hóa
tâm hồn. Sống đức tin là sống theo gương đấng chí tôn mà mình tôn thờ. Đức tin
hướng thiện hành vi của con người. Cố Tổng Thống Hoa Kỳ Calvin Coolidge
(1923-1929) nhận xét “Người mà không có tín ngưỡng là người chưa trưởng
thành- It is only when men begin to worship that they begin to grow”.
Người lãnh đạo sống với hy vọng:
Hy vọng giúp con người biến mộng
thành thực. Hy vọng là nguyên động lực thúc đẩy con người làm việc, đánh tan
được sự thất vọng rình rập cuộc sống. Hy vọng không phải là mơ mộng, mà là mãnh
lực thúc đẩy con người thực hiện được điều mong ước, lý tưởng (ideal) của mình.
Mặc dầu “Ở đời lắm nỗi không bằng mộng. Mộng lớn bao nhiêu khổ bấy nhiêu”.
Người lãnh đạo sống với tình yêu
nhân loại:
Tình yêu là hy sinh và phục vụ. Vì
tình yêu mới có thể làm việc một cách vui vẻ, không bao giờ chán nản.
“Khi yêu tam tứ núi cũng trèo, thất bát sông cũng lội, thập ngũ đèo cũng
qua”. Yêu là hy sinh, quên mình để phục vụ cho người khác. Tình yêu sẽ mang lại
sinh lực, nhuệ khí, tăng cường các đức tính tốt của con người, vì yêu là muốn
đem lại sự tốt đẹp cho tha nhân. Có những người bôn ba hải ngoại, chân
chạy không bén đất, vì nhiệt tình phục vụ nhân quần xã hội. Bất cứ
công việc gì thực hiện cho tha nhân mà không dựa trên tình yêu thì việc đó không
có sự hữu ích và thiếu giá trị tinh thần. “Cách cho hơn của cho”
là vậy! Vua Trần Nhân Tông thấy dân đói khổ đã nói với quần thần: “Trẩm thương
dân như thương con trẩm” chứng tỏ lòng nhân của một vị anh quân. Nhiều nhà cách
mạng đã hy sinh cho cuộc đời để phục vụ cho lý tưởng quốc gia dân tộc.
Người lãnh đạo là người biết khiêm
nhường.
Khiêm nhường là biết mình, là nhân
nhượng, không so sánh mình với kẻ khác để tự ti mặc cảm hay để tự cao, tự đại,
tự mãn. Khiêm nhường là phục thiện, biết nghe điều phải, biết học điều hay,
biết làm điều tốt. “Bất sỉ hạ vấn”-hỏi người dưới không lấy làm thẹn”. Khiêm
nhường không có nghĩa tự xem mình thấp kém hơn kẻ khác, hay tự ti mặc cảm. Tự
ti mặc cảm (inferiority complex) không phải là khiêm nhường mà là mất tự trọng,
tự tín (loss of self-esteem). Khiêm nhường là đức tính phát xuất từ sự hiểu
biết về sự hữu hạn của đời người, của trí tuệ, của khả năng cá nhân. Sự khiêm
nhường phát xuất từ sự nhận định được rằng, tha nhân, dù xuất hiện như thế nào
chăng nữa, vẫn là những cá nhân đặc thù, có những khuyết điểm nên tránh và
những ưu điểm nên theo. Sự khiêm nhường sẽ cho ta thời gian và sự bình tỉnh để
can đảm nhận được giá trị của người khác, mà những người tự cao, tự đại, tự
mãn, kiêu căng, không đủ bình tĩnh và lý trí để ghi nhận ưu điểm của người khác
để tự cải tiến bản thân mình. Khiêm nhường nuôi dưỡng các đức tính khác và mở
đường cho con người tự thăng tiến và được tôn trọng.
Thế thì các đức tính của người lãnh
đạo chung quy vẫn nằm trong ngũ thường: Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín.
*Nhân:
(kindness/benevolence) Người lãnh đạo là người có lòng nhân, nhận lãnh trách
nhiệm để phục vụ nhân quần xã hội.
* Lễ:
(decorum/ proprieties) Người lãnh đạo biết kính trọng tha nhân, những người mà
mình xem là đối tượng để phục vụ.” không sợ người khác không biết mình mà chỉ
sợ mình không biết người khác để đối xử cho phải lễ”.
* Nghĩa: (righteousness)
Người lãnh đạo là người có lý tưởng phục vụ cộng đồng, xã hội, quốc gia, việc
phải dù nhỏ cũng phải làm và việc quấy dù có chết cũng không làm.”.
* Trí: (wisdom) Người lãnh
đạo là người sáng suốt, khôn ngoan, nhờ kiến thức tổng quát rộng rãi do công
lao cá nhân chịu khó học hỏi để có đủ khả năng quyết định sáng suốt. “Bất sỉ hạ
vấn”, biết học hỏi người dưới quyền không lấy làm thẹn.
* Tín: (faithfulness/
fidelity) Người lãnh đạo là người tạo được lòng tin của tha nhân
bằng lời nói và hành động. “Nhân vô tín bất lập. Nghiệp vô tín bất hưng”. Người
không có chữ tín, không thể đứng vững được. “Tín vi nhân chi bảo”, được sự tin
tưởng là bảo vật của nhân thế.
Người lãnh đạo là người “Tiên
thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”.
Khổ trước cái khổ của thiên hạ và vui sau cái vui của mọi người. Người lãnh đạo
thay vì thoái thác, trùm chăn, lẩn trốn thế nhân, thường xuất hiện như một tấm
gương sáng, cải hóa thế nhân bằng một đời sống chí tình, chí nghĩa, “Lấy nhân
nghĩa thắng hung tàn, đem chí nhân thay cho cường bạo”. Người lãnh đạo là
người biết quên mình để phục vụ lẽ phải, mọi hành động đều hướng đến Chân,
Thiện, Mỹ. Người lãnh đạo là người nhập thế, biết sử dụng tài năng
của mình để nhận lãnh trách nhiệm và để phục vụ tha nhân.
Luận đến đây, mỗi người chúng ta tự
xét mình có phải là người lãnh đạo hay không? Tùy hoàn cảnh và phạm vi sinh
hoạt, mỗi người có thể trở thành người lãnh đạo đoàn thể, cộng đồng, xã hội,
quốc gia. Người lãnh đạo phải am hiểu kiến thức của thế trần, trang bị cho mình
tinh thần lương thiện, vương đạo và lý tưởng phục vụ tha nhân. Giữa vấn đề sinh
hoạt đơn thương độc mã và sinh hoạt tập thể, thì sinh hoạt tập thể là một môi
trường đào tạo các nhân vật lãnh đạo. Có sinh hoạt tập thể thì mới biết được ưu
và khuyết điểm, mới có cơ hội trao đổi tư tưởng và tự học hỏi để tiến bộ. Nhưng
cũng nên lưu ý là đoàn thể phải có khả năng sinh hoạt rộng rãi, phát triển hội
viên và sinh hoạt cả nội bộ lẫn sinh hoạt ngoại vi, cộng đồng, xã hội mới có
thể đem tinh thần phục vụ đến cho nhân thế. Một đoàn thể đóng kín là một đoàn
thể chẳng bao lâu sẽ bị mai một và héo tàn “A group closed upon itself will
soon wither and die” dù đoàn thể đó là ái hữu, xã hội, tôn giáo hay chính trị.
Người lãnh đạo không chỉ phát triển
đoàn thể cho mình, hay đoàn thể nào có mình là đủ, mà phải tạo cơ hội cho người
khác tham gia đoàn thể, để có cơ hội phát triển, đồng tiến xã hội. Người lãnh
đạo là người có tinh thần thông hiệp phong phú, biết kỹ thuật kết hợp, đoàn kết
để tạo thành sức mạnh nhằm xây dựng nhân quần xã hội ngày càng thêm tốt đẹp về
tình cũng như về lý:
Tình:
Mục đích của đoàn thể nhằm phục vụ
các nhu cầu thiết yếu của tha nhân theo hệ cấp nhu cầu (Abraham Maslow):
(1) Nhu cầu căn bản sinh vật lý
(physiological needs) như đói ăn, khát uống.
(2) Nhu cầu được sinh sống an toàn
(security needs) không bị đe dọa bởi bất cứ nguyên nhân nào, sống an cư, lạc
nghiệp, kỳ thị.
(3) Nhu cầu được sống hội nhập,
(social needs) người là sinh vật xã hội, sống thành tập thể, hội nhóm, xã hội,
tôn giáo, cộng đồng,
(4) Nhu cầu được tôn trọng (esteem
needs); Không ai có thể yên thân khi bị người khác chê cười, xa lánh,
(5) Nhu cầu đạt được những điều
mong ước (self-actualization needs), lý tưởng của mình,
Lý:
(1)Nhu cầu sống thành tập thể, hội
nhóm, dù đoàn thể được tổ chức có quy cũ theo luật lệ hiện hành (de jure) hay
tổ chức theo kết ước, bất thành văn (de facto) cũng phải theo những ý niệm căn
bản của nhân tình thể hiện qua cương thường đạo nghĩa làm căn bản cho luật lệ
hiện hành.
(2) Xã hội, cộng đồng hay đoàn thể
là những tập thể chung sống giữa người và người trên hai bình diện tình và lý.
(3) Muốn sinh hoạt được hữu hiệu,
đoàn thể phải được điều hành hợp tình và hữu lý thể hiện qua các nguyên tắc căn
bản được các quốc gia chấp nhận về vấn đề tổ chức và quản trị hiệp hội và nhân
sự hữu trách phải tuân thủ các nguyên tắc luân lý nghề nghiệp (code of ethics).
(4) Hiện nay tại Hoa Kỳ, cũng như
tại các quốc gia tự do, các đoàn thể xã hội, ái hữu, cộng đồng … thường được
thành lập theo luật hiệp hội bất vụ lợi (not for profit organization
–NPO). Tuy chi tiết có thể khác nhau, nhưng tổng thể 50 tiểu bang tại Hoa
Kỳ có 50 bộ luật riêng về hiệp hội.
(5) Hình thức tổ chức thông thường
theo luật lệ hiện hành, hội viên bầu các vị giám đốc vào Hội Đồng Quản Trị
(Board of Directors). Hội đồng Quản Trị thường có 3 chức năng chính: Quyết nghị
(deliberative), Chấp hành (executive) và Giám sát (oversight).
(6) Cả ba cơ chế, tuy ba mà một,
tuy một mà ba, đồng chịu trách nhiệm về sự thịnh, suy của tổ chức, chứ không
phải ba cơ chế biệt lập không liên hệ với nhau. Cả ba cơ chế phải cùng nhau
quyết nghị về chính sách, chương trình, kế hoạch và phải hỗ trợ cho nhau để
thực hiện phần vụ của mỗi cơ chế và toàn bộ chương trình đã đề ra và được chấp
thuận.
(7) Khi bầu, hội viên thể hiện sự
tín nhiệm và uỷ thác
cho các vị giám đốc nhiệm vụ quản trị và điều hành hiệp hội gọi chung là trách
nhiệm được tín thác (fiduciary duty). Sự kiện nhận trách nhiệm được hội
viên tín thác đòi hỏi các thành viên hữu trách phải chu toàn nhiệm vụ qua ba
tiêu chuẩn hành sự:
*Cần mẫn: (duty of care):
Chăm lo sinh hoạt của tổ chức trong
vấn đề hình thành và cập nhật các văn kiện căn bản; thực thi chính sách, chương
trình, phục vụ tổ chức và thành viên như nhiệm vụ đã được quy định trong nội
quy với tinh thần thận trọng, cần mẫn, tận tình, và biết tiên liệu để tránh sự
bất ổn, phân hóa, gây thiệt hại cho tổ chức và hội viên về tinh thần và vật
chất.
*Trung tín (duty
of loyalty): Trung thành với bản điều lệ, nội quy để phục vụ hội viên, bảo vệ
uy tín, danh dự và tài sản của tổ chức; không được chiếm công vi tư, vi phạm
nguyên tắc quyền lợi tương phản (conflict of interest), không cạnh tranh
bất chính (unfair competition) bằng lời nói, hành động; phải tạo sự tín cẩn,
tôn trọng và hợp tác giữa các đồng sự, thành viên, trung thành với danh
xưng, tôn chỉ, mục đích.
*Tuân phục (duty
of obedience): Tuân giữ các nguyên tắc điều hành nội bộ, luật lệ tiểu bang,
liên bang, báo cáo định kỳ về sinh hoạt, tài chính, thuế khoán, nhật tu, tái
ghi danh thường niên giấy phép hoạt động theo luật định… cũng nên nói thêm hiện
nay các đoàn thể xã hội, tôn giáo thường xin giấy phép hoạt động để hưởng các
quy chế pháp định như tự cách pháp nhân, miễn trừ thuế …cũng như các đoàn thể
hoạt động không xin giấy phép như một số đoàn thể tranh đấu cho tự do, dân chủ
cũng cần hoạt động trong khuôn khổ luật lệ cho phép kể cả trách nhiệm cần
lưu ý đến chính sách ngoại giao của chính phủ sở tại và phải tôn trọng nguyên
tắc bang giao quốc tế của quốc gia nơi chúng ta cư ngụ.
Vi phạm các trách vụ nêu trên
thường là nguyên nhân của sự bất tín nhiệm, phân hoá, bãi chức, tranh tụng
trong sinh hoạt đoàn thể ái hữu, tôn giáo, xã hội cộng đồng, chính trị.
Hy vọng với tinh thần cần, kiệm, liêm, chính thì mọi sinh hoạt sẽ được chu toàn
và hanh thông trong công tác phục vụ phúc lợi chung của tập thể người Việt cư
ngụ tại hải ngoại làm nền tảng cho đại cuộc cứu quốc và kiến quốc.
Tự cổ, triết lý giáo dục đã
được minh định: “Đại học chi đạo, tại minh minh đức, tại thân
dân, tại dĩ ư chí thiện”, thể hiện 3 mục tiêu chính
(1) Giáo dục phổ thông nhằm làm
sáng cái đức tính của mình,
(2) để thân dân, cải tiến dân sinh,
(3) và giúp dân bỏ cái xấu, theo
cái tốt.
Ba cương lĩnh trên được cụ thể hóa
bằng sách lược đào luyện để giúp con người trở thành đại trượng phu, mẫu người
quân tử, mẫu người lãnh đạo theo quan niệm của Nho học ( Confucius
teachings).
Diễn tiến đào luyện kỹ năng lãnh đạo
được tiệm tiến thực hiện qua 8 phương thức:
(1) Cách
vật: tiếp cận và tìm hiểu sự vật; (investigation
of things, identify the problem)
(2) Trí tri: để
đạt sự hiểu biết thấu đáo cái nguyên lý của sự vật, (extension
of knowledge)
(3) Thành ý:
Mỗi khi đã hiểu thấu đáo nguyên lý sự vật thì nhận thức được đứng đắn (the
will becomes sincere);
(4) Chánh
tâm: Khi nhận thức đứng đắn thì tâm tính được chính trực, (the
mind is rectified)
(5) Tu
thân: tâm ngay thẵng sẽ giúp con người tu sửa chính mình, (the
personal life is cultivated)
(6) Tề gia:
khi thân đã tu sửa thì đương nhiên gia đạo được hài hòa, ((the
family is regulated)
(7) Trị quốc:
gia đạo hài hòa thì yên thân giúp cho nước được an trị, (the
state put in order)
(8) Bình
Thiên hạ: khi mọi quốc gia được an trị thì thiên hạ thái bình.(the
peace is established throughout the world).
Thật là một cương lĩnh đào luyện
nhân tài tuyệt vời hướng thiện con người về cả hai phương diện đức dục và
trí dục. Vì đạo đức lên khuôn cho hành động nên đối với người xưa đức dục quan
trọng hơn trí dục, sĩ tử học “đạo trị quốc”. Ngày nay, trong tiến trình Tây
Phương hoá, học đường chú trọng đến trí dục, kỹ thuật, và nhẹ về công dân
giáo dục.
Thật ra, quan niệm chính trực về
giáo dục thể hiện qua câu danh ngôn: “Cái học khoa cử chỉ là manh áo bên ngoài,
là con đường đi vào đạo sống. Nếu không đạt được chính đạo, nghĩa là không phục
vụ chân lý, chính nghĩa, quốc gia, dân tộc thì khoa bảng chỉ có hiệu lực trang
trí”.
“Cách vật trí tri, thành tâm, chánh
ý, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” vẫn là ước nguyện chung của
tất cả chúng ta vậy.
Trần Xuân Thời
Ghi chú:
"Người
lãnh đạo thường là người trí thức sở hữu sự kết hợp của các đặc điểm như
sau- Intellectuals typically possess a combination of traits
including:
1-Tính hiếu kỳ:
Mong muốn khám phá những ý tưởng và quan điểm mới. (Insatiable
curiosity: a desire to explore new ideas and perspectives).
2-Tính hiếu học: Ham đọc sách và học hỏi: Mong
muốn thủ đắc kiến thức và tìm hiểu các đề tài khác nhau. (love
of reading and learning: A passion for acquiring knowledge and
understanding different subjects)
3- Tính khiêm tốn: Nhận
thức được sự giới hạn của trí tuệ và sẵn sàng học hỏi từ người
khác. (Intellectual humility: Recognizing the limits of one’s knowledge
and being willing to learn from others).
4-Tính cởi mở:
Sẵn sàng xem xét các quan điểm khác lạ và thách thức niềm tin của chính mình. (open
mindedness: The willingness to consider alternative view points and
challenge one’s own beliefs)
5- Tính hoài nghi:
Cần có một chút nghi vấn lành mạnh và đặt giả thuyết. (skepticism:
A healthy dose of doubt and questions of assumptions)
6- Tính đam mê:
Nhiệt tình trong việc thảo luận để khám phá các khái niệm trừu tượng. (passion
for ideas: A genuine enthusiasm for discussing and exploring abstract
concepts).
7-Tính nhân từ: (Nhân); thương yêu nhân loại. (kindness,
esteem, self-esteem, influence others)
8-Tính giúp đỡ: (Nghĩa) hào phóng, giúp đở tha nhân
(helps, win over people)
9-Tinh kính nễ: (Lễ) tránh xúc phạm, reverence,
respect, prevents being insulted)
10-Tính siêng năng: (Trí), siêng năng, cần mẫn, dẫn
đến thành tưu) (diligence, lead to great
achievements)
11-Tính tin tưởng: (Tín) trung thực, giúp tạo sự tin
tưởng, (truthfulness, helps people trust you)
12-Khả năng sáng tạo:
Khả năng tư duy sáng tạo và tìm ra những ý tưởng mới. (Creativity:
The ability to think outside the box and generate new ideas)
13- Khả năng bình phẩm:
Khả năng phân tích tin tức, lượng giá bằng chứng và hình thành ý kiến. (Critical
thinking: The ability to analyze information, evaluate evidence, and form
formed opinions)
14- Khả năng lý luận:
Khả năng rút ra kết luận đúng đắn từ bằng chứng. (Logical
reasoning: The ability to draw sound conclusions from evidence)
15- Khả năng thông đạt hữu hiệu:
Khả năng diễn đạt ý tưởng rõ ràng qua lời nói và bằng văn bản. (Effective
communication: The ability to clearly express thoughts and ideas in
writing)
16- Khả năng phân tích:
Khả năng phân tích các dữ kiện phức tạp và hiểu các mối quan hệ giữa các thành
tố. (Analytical thinking: The ability to break down complex information
into small parts and understand relationships
17-Khả năng tổng hợp:
Kết hợp những kiến thức rời rạc để hình thành những kiến thức mới. (Ability
to synthesize information: Combining disparate pieces of knowledge to form new
insights)."
No comments:
Post a Comment