Sinh mệnh Việt
Kính gửi đến Quý Thân hữu tài liệu biên khảo rất có giá trị dưới đây của TS Nguyễn
Anh Tuấn (Political Scientist). Mong quý vị chuyển tải rộng rãi trên các Diễn Đàn hoặc Website thân hữu của Quý vị.
Qua biên khảo «Trào Lưu Lịch Sử Thế
Giới TK20 &TK21» này sẽ tạo cơ hội và bằng
chứng lịch sử vững chắc cho chúng ta cái nhìn trung thực và đúng đắn về lý do:
1– Tại sao Hoa Kỳ là một Quốc Gia non trẻ lại trở nên một Quốc Gia hùng cường
về quân sự, thịnh vượng về kinh tế, bền vững về chính trị,
ổn định về xã hội?
2– Tại sao Hoa Kỳ lại có khả năng tạo ra một Hiến Pháp ngắn gọn
nhất và cô đọng nhất cho nền chính trị Hoa Kỳ dựa trên nền tảng: «Công Lý – Tự Do – Bình Đẳng»?
3– Tại sao Hoa Kỳ lại có khả năng điều động các
quốc gia trên thế giới để hình thành nên Hội Quốc Liên, sau đó
là Liên Hiệp Quốc và khối Minh Ước Bắc Đại Tây
Dương (NATO) để giải phóng cho hàng trăm quốc gia bị thực dân chiếm đóng và đem
lại quyền Dân Tộc Tự Quyết và Quyền Bình Đẳng cho mọi quốc gia dù lớn hay nhỏ,
cường quốc hay đang phát triển?
4– Tại sao Hiến Chương Độc Lập
của Hoa Kỳ và Hiến chương Nhân Quyền Liên Hiệp Quốc lại như hình
với bóng, như chị với em… ?
5– Mong rằng «Trào Lưu Lịch Sử Thế
Giới TK20 & TK21» sẽ tiếp tục soi rọi & phá bỏ các nền Chính Trị Bá
Đạo được núp bóng trong các chế độ Độc Tài
Man Rợ, Xã Hội Chủ Nghĩa Lưu Manh.
6– Mong rằng «Trào Lưu Lịch Sử Thế
Giới TK20 & TK21» sẽ thúc đẩy Việt Nam xây dựng được một
Việt Nam dựa trên nền tảng Chính Trị Vương Đạo: Công
Lý – Tự Do – Bình Đẳng. Đạo Đức Xã
Hội được triển khai ngay từ học đường.
7—Mong rằng các tôn giáo, các chính trị gia, các nhà trí thức sẽ nhận ra cơ hội đóng góp
phận vụ của mình để mọi người dân được hưởng
cảnh thái bình trong ấm no và hạnh phúc.
Trân trọng,
Lạc Việt
Sinh mệnh Việt Nam trước trào lưu lịch sử
thế giới
thế kỷ 20 & thế kỷ 21
TS Nguyễn Anh Tuấn
Political Scientist
«Nếu các con giữ những lời dậy của ta, các con mới thực sự
là môn đệ của ta, các con sẽ tìm lấy sự thật và sự thật sẽ giải phóng các con»
(John 8:32).
Lời mở đầu
Trong văn hóa và trong văn chương Việt
có câu: «Sôi kinh nấu sử», chứa đựng một ý nghĩa sâu thẳm. Nếu con người có khả năng biết đúng-sai, phải-trái, thật-giả, biết mình
biết người, và
biết bạn-thù, thì con người đó mới được coi là người minh triết và khôn ngoan sáng suốt. Và
nếu chúng ta hiểu được những phạm trù giá trị căn bản đó để tìm kiếm sự thật, thì đúng
như Chúa Jesus đã dậy: «Sự thật sẽ giải
phóng chúng ta».
«Sôi
kinh nấu sử» có nghĩa là phải như Chúa Jesus đã dậy: «Hãy
giữ những lời dậy của Ta» (John 14:23). Chúa Jesus còn dậy thêm: «Ta là ánh sáng thế gian, ai bước theo ta sẽ
không còn bước đi trong tăm tối nữa» (John 8:12). Đó là tất cả ý nghĩa của hai chữ «sôi kinh». Phải học Đạo Lý của Trời.
Từ bao ngàn năm qua, văn minh Đông Phương
theo Đạo Trời, tức Đấng Tạo Hóa, và luôn luôn dậy con người «đạo lý» của Trời,
nhưng đạo lý là gì thì cả đến Lão Tử và Khổng Phu Tử cũng chưa biết rõ vì «Đạo khả Đạo phi thường Đạo – Danh khả Danh phi thường Danh»- «Đạo mà nói ra được thì không còn là Đạo thật nữa», thế
thì ai biết Đạo là gì để mà đem ra thực hành. Đúng là văn minh của con người tự làm ra là bất toàn và bất
túc như thế đó. Vì thế muốn hiểu đạo lý của Đấng Tạo Hóa thì phải học nơi các chính giáo.
Thực ra, đạo lý là Luật của
Trời Cao và luật của Thiên Nhiên, mà các
chính giáo và các bậc giáo chủ đã dậy con người từ bao ngàn năm qua, phải thờ lạy Đấng Tạo Hóa, là người đã tạo dựng nên con người và muôn
sinh vật trong trời đất, trong đó cuốn Thánh Kinh Cựu Ước và Tân Ước là cuốn sách luật của Đấng Tạo Hóa. Phần lớn những luật lệ của
nước
Anh, nước Mỹ
và cả Âu Châu và thế giới đều lấy từ 630 điều luật của Moses, mà Thiên Chúa đã trao cho Moses đưa đến
cho tất cả nhân loại trên núi Sinai từ 3500 năm qua – như một Giao Ước giữa Trời Cao và thế giới con người.
Muốn sống thuận Thiên để có thanh bình,
an lạc, ấm no và hạnh phúc thì con người phải giữ luật ấy để xây dựng con người, gia đình và quốc gia, và thế giới. Và nước Mỹ đã được Thiên Chúa trao
cho sứ mạng xây dựng thế giới này cho nhân loại.
Vì thế, con người phải có khả năng nắm vững những nền móng căn bản luật
của Trời Cao và luật thiên nhiên, trước khi nghiên cứu lịch sử. Đó là ý nghĩa của «sôi kinh nấu sử».
Dòng sử mệnh Việt gắn liền với trào lưu
lịch sử của thế giới suốt từ năm 1918 đến năm 2000. Muốn tìm hiểu trào lưu lịch sử đó, con người không thể trông vào
cái trí thông minh cạn cợt và giới hạn của riêng mình. Nhất định con người cần sự soi sáng và hướng dẫn bởi ánh
sáng của đạo lý
như Chúa Jesus đã dậy. Tất cả ánh sáng của minh triết đều đến từ Trời Cao.
Chúng ta phải tìm kiếm Mặt Trăng đúng như ngón tay chỉ trăng của Đức Phật đã chỉ cho chúng sinh, nếu chúng ta muốn có minh triết và
không ngoan sáng suốt. Khi có được ánh sáng đó, chúng ta sẽ không còn bước đi trong tăm tối nữa.
Từ đó chúng ta sẽ nhìn ngắm trào lưu lịch
sử thế giới trong suốt thế kỷ 20 để tìm kiếm sự thật, nếu chúng ta muốn giải phóng quê hương
Việt Nam thân yêu của chúng ta thoát khỏi tai họa Cộng sản hiện nay.
Chúng ta phải tìm mọi cách để đừng lập lại những lỗi lầm mà các
thế hệ trước đã vấp phải nên đã tạo ra những
thảm họa, và khổ đau chồng chất cho bao thế hệ người dân từ gần một thế kỷ qua. Một thế kỷ tăm tối nhất dòng sử mệnh Việt từ
bao ngàn năm qua.
Chúng ta quá tự hào là chúng ta có một
nền văn hiến với bốn ngàn năm lịch sử và đủ thứ tôn giáo, nhưng chúng ta không đi tìm
«ánh sáng của mặt trăng», và không chịu học hỏi luật lệ của Trời Cao nên thường
sống trong tăm tối và đi ngược lại với Đạo lý, tức luật lệ của Trời và luật lệ thiên nhiên, để đặt trọn vẹn niềm tin vào con người,
mà không tin vào Đấng Tạo hóa, Đấng Tối Cao, Thượng Đế hay Thiên Chúa nên không bao giờ được soi sáng
và hướng dẫn để không phải bước đi
trong tăm tối
nữa.
Chúng ta quá tự tin vào thứ thông minh
cạn cợt và giới hạn của riêng mình mà quên rằng con người chỉ là một tạo vật trong bàn tay của
Đấng
Tạo Hóa. Chúng ta quên luôn là con người chỉ là cát bụi, rồi sẽ trở về với cát
bụi.
Quốc gia và dân tộc luôn
luôn cần những người lãnh tụ, và trí thức tinh hoa, nhưng những lãnh tụ, và trí thức tinh hoa mà không minh triết và khôn ngoan
sáng suốt thì làm sao họ biết được cái gì đúng, cái gì
sai; cái gì phải, cái gì trái; cái gì thật, cái gì giả; làm sao biết được mình, biết được người; và làm sao biết được ai là bạn, ai là thù?
Đã đến lúc những ai muốn làm lãnh tụ
hay tự nhận mình là trí thức khoa bảng tinh hoa thì phải là con người minh
triết, và khôn ngoan sáng suốt. Nhất định những con người lãnh tụ và trí thức tinh hoa phải theo ngón tay của Đức Thế Tôn mà tìm cho được «ánh sáng của mặt trăng». Họ phải có khả năng thoát xác trần tục của họ để cho tâm hồn và trí tuệ của họ được cơ hội thăng hoa siêu việt, thành con người minh
triết và khôn ngoan sáng suốt. Họ phải biết quay đầu về với thế giới nội tâm sâu thẳm và
huyền bí của họ. Họ phải hướng trọn vẹn tâm hồn và trí tuệ của họ lên Trời Cao mà
cầu xin ơn soi
sáng và hướng dẫn. Thế giới bên trên là thế giới của ánh sáng. Từ đó họ sẽ trở nên con người minh
triết và khôn ngoan sáng suốt.
Tại sao bao bi kịch kinh hoàng đã xẩy
ra trên đất nước VN, và tại sao quê hương thân yêu của chúng ta mãi mãi phải sống trong
kiếp trầm luân? – Tại vì chúng ta quá tin vào con người, quá tin vào lãnh tụ,
mà quên rằng con người không có ai là Thiên Thần cả.
Trong Thánh Kinh, Thiên Chúa đã cảnh
giác: «Các
con phải cảnh giác trước con người»… Khi họ nắm quyền hành trong tay, họ sẽ đẩy người dân hết từ hầm tai vạ này đến hầm tai vạ khác. James Madison thì nói: «Chúng ta không có ai là Thiên Thần cả. Nếu chúng ta là Thiên Thần thì
chúng ta không cần chính quyền. Nếu chính quyền do Thiên Thần cai trị, thì
chúng ta cũng không có vấn đề gì cả».
Nhưng vì chính quyền của chúng ta do
con người nắm
giữ, vì thế chính quyền được quyền kiểm soát người dân, và chính quyền phải tự kiểm
soát lấy chính mình, bằng cách phân quyền để kiểm soát lẫn nhau mà thăng bằng
quyền lực quốc gia – và người dân phải kiểm soát chính quyền.
Người dân Mỹ không ai tin con người, họ
không tin chính quyền. Người Mỹ chỉ tin cậy vào Thiên Chúa và luôn luôn cầu nguyện để xin soi sáng và hướng dẫn, kể cả những cơ quan chính quyền. Nhờ đó, nứớc Mỹ trở nên vĩ đại và
minh triết nhất mặt đất, vì quốc gia này được bàn tay Quan Phòng của Thiên Chúa soi sáng và hướng
dẫn.
Phải luôn luôn cảnh giác trước bản chất
của con người,
rất giới hạn, dễ sa ngã, dễ lầm lạc, yếu đuối, dễ bị cám dỗ, hay ghen tuông, đố kỵ, ích kỷ, tham
lam, gian dối, ham mê quyền lực, và tiền bạc.
Khi duyệt xét lại trào lưu lịch sử thế
giới, nhất định phải xét lại những con người đã làm nên lịch sử và khuynh hướng chính trị của họ – Chính Trị Bá Đạo hay Chính Trị Vương Đạo? Đây là một chủ đề mà ngành khoa học chính trị của nước Mỹ và Tây Phương hình như chưa bao
giờ đem ra
thảo luận.
Tại Đông Phương các nhà đạo học thường mơ về giấc mơ vương đạo. Khổng Tử có nói, nếu ai biết
Đạo
Trời thì trị quốc dễ dàng và tốt đẹp vô cùng, nhưng ông cũng chưa định nghĩa rõ ràng chính trị vương đạo là gì, vì thế mà Đông Phương,
và văn minh Trung Hoa cũng chưa có Chính Trị Vương Đạo.
Người Tàu rất hãnh diện có một nền văn minh 5000 năm, nhưng 5000 năm qua, sinh mệnh lịch sử của quốc gia đông dân nhất thế giới luôn bị
thống trị bằng chính trị bá đạo. Như Chúa Jesus đã dậy là: «lãnh tụ các
sắc dân thì lấy cường quyền mà thống trị
dân. Người làm lớn thì lấy uy quyền bạo lực để khuất phục dân» (Matthew 20:25). Chinh trị bá đạo không bao giờ phục vu dân, mà bắt toàn
dân phục vụ lãnh tụ và phục vụ chính quyền; bởi vì, người nắm quyền hành quốc
gia là cha mẹ của dân – là «phụ mẫu chi
dân».
Phần đông người dân Trung Hoa, không mấy ai
tin vào Đấng Tạo Hóa, Thượng Đế, Đấng Tối Cao hay Thiên Chúa. Họ chỉ biết tin vào con người.
Nhưng con
người
không có ai là Thiên Thần cả, mà họ cũng là những con người dễ lầm lạc, dễ sa ngã và dễ bị cám dỗ và đầy thói hư
tật xấu. Khi họ nắm giữ tất cả quyền hành quốc gia, mà không hề bị kiểm soát thì
họ dễ thành tai họa cho người dân.
Vì nước Mỹ được xây dựng từ luật của Thiên Chúa, và
luật thiên nhiên, nên nước Mỹ đã khai sinh ra nền văn minh dân chủ. Chính là văn minh chính
trị vương đạo độc nhất và đầu tiên trong lịch
sử chính trị thế giới.
Cách đây 2000 năm, Chính Chúa Jesus đã
dậy con người về
chính trị vương đạo, mà
không có quốc gia nào chú ý tới lời Chúa dậy trong Thánh Kinh Tân Ước:
«Như anh em biết, những lãnh tụ của các sắc dân thường dùng cường quyền
bạo lực để thống trị dân, những người làm lớn thì dùng quyền uy thô bạo để khuất phục dân. Còn các anh em thì không được làm như
thế. Ai muốn làm lớn trong anh em, thì người ấy phải phục vụ anh em. Và ai muốn
đứng đầu anh em, thì người đó phải làm đầy tớ cho anh
em. Cũng như con Thiên Chúa đến không phải để cho con người phục vụ, nhưng ta đến để phục vụ, và hiến dâng mạng sống mình làm giá chuộc tội
cho tất cả nhân loại.» (Mathew 20:25-28)
Ngay từ bước khởi đầu của lịch sử lập quốc, khi con tầu
MayFlower cập bến Mỹ Châu vào năm 1620 và 1630 tại James Town, các nhà truyền
giáo thuộc trường phái Puritan đã được Chúa soi sáng và hướng dẫn để đem luật của Chúa và những lời dậy của
Chúa trong Thánh KInh để thành lập nên một «Quốc
Gia Của Thánh Kinh» (The Bible
Common Wealth).
Họ đều là những nhà truyền giáo thuộc thế
hệ thứ nhất của các Nhà Lập Quốc (First generation of Founding Fathers). Họ đã xây dựng lên 13 tiểu bang đầu tiên, và John Winthrop (1630)
đã nhìn thấy tương lai gần 450 năm trước– là
nước Mỹ sẽ trở thành «Đô Thị Ánh Sáng Trên Đồi Cao Để Soi Sáng Và Hướng Dẫn Cho Tất Cả Nhân Loại».
Vi thế, trào lưu lịch sử thế giới trong
thế kỷ 20 là giúp cho tất cả nhân loại và tất cả các quốc gia xây dựng «Trật Tự Thế Giới»
(the Order of the World). Đó là sứ mạng lịch sử mà Thiên Chúa đã ký thác cho nước Mỹ
phải hoàn thành. Chính cái sứ mạng nặng nề và thiêng liêng này, mà Thiên Chúa
với bàn tay Quan Phòng của Thiên Chúa đã soi sáng và dẫn dắt hai thế hệ các Nhà
Lập Quốc xây nên quốc gia vĩ đại này. Một quốc gia non trẻ nhất thế giới, trở thành quốc gia đầy quyền năng về quân sự, kinh tế, tài chánh, phát
minh khoa học kỹ thuật. Đúng như lời Thánh Kinh: «Ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì cửa sẽ mở cho» (Mathew 7:8-9).
Nhưng trước tiên và trên
hết là Hoa Kỳ còn là một quốc gia độc nhất trong lịch 6000 năm của nhân loại, có một thứ Quyền Năng Siêu Đẳng– Đó Là «Quyền Năng Đạo Đức». Cả thế giới phải tùng phục vì Quyền Năng Đạo Đức Siêu Đằng đó.
Trào lưu lịch sử mà chúng ta tìm cách để
học hỏi và duyệt xét vô cùng lớn lao và cực kỳ phức tạp, nếu chúng ta không nắm
được mấu chốt của nó, thì dễ lạc vào mê hồn trận. Quyền năng siêu đẳng của đạo đức là gì? Luật
của Chúa và những lời dậy của Chúa là: Thực Thi Công Lý, Quyền Bình Đẳng Và Tự Do
Cho Tất Cả Con Người.
Đòi hỏi này của Thiên Chúa đã được ghi
trong Hiến Pháp Hoa Kỳ, và ghi luôn trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc. Đó là giá trị cốt lõi của trào lưu
lịch sử mà ngày nay chúng ta đang cùng nhau học hỏi và duyệt xét để tìm cho ra
những sự thật của lịch sử.
Chính sự thật đó sẽ giải phóng chúng ta và giải phóng
quê hương thân yêu của chúng thoát khỏi tai họa của cộng sản để cùng nhau xây dựng một chế độ Chính
Trị Vương Đạo Trên Hoang Tàn Đổ Nát
Hôm Nay.
Trước trào lưu lịch sử của thế giới,
dân tộc VN đã phải hứng chịu muôn vàn cái chết đắng cay, tủi nhục không sao kể xiết như sống trong địa ngục trần gian. Người là tai vạ cho người. Người là là nỗi chết hãi hùng cho người.
Người đã tước đoạt phũ phàng quyền sống, quyền bình đẳng và
công lý của người. Đó là bản chất độc ác và vô luân của
Chính Trị Bá Đạo.
Và «Trào Lưu Lịch Sử Trong Thế Kỷ 20», do
Hoa Kỳ chủ xướng
và phát động là buộc các thế lực của chính trị bá đạo trên thế giới phải dừng bước để nước Mỹ đem lại chính trị vương đạo cho thế giới đau khổ và hỗn loạn
của con người. Mục đích của chính trị vương đạo là đem
Công Lý Tự Do và Bình Đẳng đến cho tất cả mọi người. Đây là luật tối cao
của Hoa Kỳ và của Liên Hiệp Quốc, mà các quốc gia đã cùng ký phê chuẩn từ năm 1945 tại San Fracisco,
Hoa Kỳ.
Cách đây 3500 năm, Thiên Chúa đã lập
Giao Ước
giữa Con Người và Thiên Chúa bằng «10 Giới Luật –
Ten Commandments» để dân Do Thái xây dựng quốc gia của họ dựa trên Luật Giao
Ước đó. 3500 năm sau, Hoa Kỳ đem luật Giao Ước này để ký kết giữa quốc gia
và cộng đồng
thế giới vào thế kỷ 20, mà không mấy ai hiểu «In God We Trust», «We The
People» là như thế nào, kể cả đa số người dân Hoa Kỳ.
Trào lưu lịch sử thế giới thế kỷ 20 & thế kỷ 21
Trào lưu lịch sử của thế giới vào thế
kỷ 20 bắt nguồn từ khi Hoa Kỳ dấn thân vào thế giới – một thế giới đầy những tranh chấp, xung đột và hận thù giữa các đế quốc
thực dân Âu Châu hùng mạnh đi xâm lăng và chiếm đóng các quốc gia nhược tiểu ở Trung Đông, Phi Châu và Á Châu.
Trong bối cảnh lịch sử nhiễu nhương và cực kỳ
hỗn loạn đó. Một
quốc gia non trẻ nhất thế giới, vừa được khai sinh từ 1776 để trở thành một quốc gia đầy quyền năng về quân sự, kinh tế, tài chánh và
khoa học kỹ thuật. Bên cạnh những quyền năng siêu việt đó, Hoa Kỳ còn có cả quyền năng còn siêu việt hơn nữa– đó là «quyền
năng đạo đức». Với những quyền năng đó, Hoa Kỳ đã đạt được những thành quả như sau :
1– Hoa Kỳ đã đánh bại đế quốc Đức để cứu Âu Châu thoát khỏi nanh vuốt của
quốc gia hùng mạnh này vào Đệ I Thế Chiến.
2– Hoa Kỳ đã cứu thoát Âu Châu khỏi nanh vuốt hãi
hùng của Hitler vào Đệ II Thế Chiến.
3– Hoa Kỳ đã giải phóng gần 70 quốc gia đang bị bị chiếm đóng và đô hộ bởi các đế quốc
thực dân Âu Châu để có độc lập, quyền tự quyết và toàn vẹn lãnh thổ.
4– Hoa Kỳ đã giật sập Liên Bang Sô Viết để cứu cả thế giới thoát khỏi tai
họa của làn sóng cộng sản và Chiến Tranh Lạnh.
5– Hoa Kỳ đã thành lập tổ chức NATO để bảo vệ hòa bình và ổn định cho toàn thế giới, từ 1918 –
2023.
6– Hoa Kỳ đã xậy dựng lên tổ chức quốc tế là Liên
Hiệp Quốc vào 1945.
7– Hoa Kỳ đã truyền bá Văn minh Dân chủ Kitô giáo,
và đưa 111 quốc gia vào dân chủ hóa.
Tiến trình thành lập Hội Quốc Liên
Sau khi nghe TT Wilson đọc bài diễn văn trước Liên Bang và Quốc Hội Hoa Kỳ, Alibu
Root, một chính trị gia phe Bảo Thủ tuyên bố :
«Chúng
tôi bị thúc bách phải cầm “lưỡi gươm công lý “ (the sword of justice) để tranh đấu cho tự do
và cho sự tiến hóa của các quốc gia… Sự tiến
hóa của các quốc gia được mở rộng tới Á Châu và Phi Châu, và toàn thế giới.»
TT Wilson đã trình bày trước Quốc hội
14 điểm để xây dựng hòa bình, và bảo vệ
những quyền lợi của nước Mỹ, ông đã tuyên bố hùng hồn tiếng nói của chủ nghĩa đạo đức (moralism)
từ phong trào tiến bộ của Hoa Kỳ đã đưa ông vào chức vụ Tổng Thống Hoa Kỳ. Những điểm ông đưa ra bao gồm việc loại
trừ những hiệp ước bí mật, chứa đựng những triệu chứng sẽ gây nên chiến tranh; tự do hàng hải trên biển cả;
phải triệt thoái các đoàn quân xâm lăng; và trả lại những phần lãnh thổ đã chiếm đóng của các đế quốc thực dân Âu Châu;
chấn chỉnh lại những vùng biên giới và thiết lập tổ chức liên kết các quốc gia để bảo đảm cho những quyền độc lập chính trị và toàn vẹn
lãnh thổ cho các quốc gia, không cần biết lớn hay nhỏ. (Trích từ The Annals of America, volume 14, trang
71-73).
Chương trình 14 điểm và những lời tuyên bố được in ra bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau tại Trung Âu và được các máy bay thả xuống vùng có các quốc gia thù nghịch. TT Wilson đã hứa là thi hành trên căn bản công lý và công bằng (justice and fair dealing) cho tất cả các quốc gia, cả những kẻ chiến thắng và những kẻ chiến bại, giúp các quốc gia yếu đuối chống trả lại kẻ thù của họ.
Diễn văn đọc trước Liên bang của TT Woodrow Wilson ngày 8 /1 / 1918
«Kính
thưa quý vị Dân Biểu và Thượng Nghị sỹ,
«Chúng
ta dấn thân vào cuộc tranh đấu này, bởi vì những đế quốc ích kỷ và tham lam đã có những
vi phạm trầm trọng những quyền tự nhiên căn bản của con người, và đã làm
cho chính đời sống của chúng ta không thể nào an toàn được, ngoại trừ các đế
quốc phải tự xét những lỗi lầm của họ, và đã đến lúc thế giới phải được bảo đảm ngay khi
tất cả mọi người cùng nhau đứng lên không cho phép những vi phạm tái diễn như thế nữa.
«Chúng
ta đòi hỏi gì trong cuộc chiến tranh này ? Thực tế, chúng ta không muốn gì
riêng cho chúng ta cả, nhưng điều quan trọng là– thế giới này phải xây dựng lại cho sự
an toàn và ổn định, cũng như chúng ta và thế giới này, chỉ cầu mong sống một cuộc sống như chúng ta; có
những quyền tự quyết về những cơ cấu, để bảo đảm chắc chắn có công lý và sự công bằng về cách đối xử
với những con người đang sống trong tăm tối và đau khổ, sẽ đứng lên để chống lại bạo lực thô bạo và
những kẻ ích kỷ đi tranh quyền cướp nước của những nước yếu kém hơn mình.
«Tất
cả con người trên thế giới này phải trở thành những người hợp tác với nhau chặt chẽ cho quyền
lợi chung, và phần quyền lợi của chính chúng ta, với cái nhìn thật sáng tỏ, là
ngoại trừ công lý phải được thực thi và hiện thực; và chương trình đó cho hòa bình
của thế giới. Và trên Giao Ước Toàn Thế Giới (Universal covenant ) sẽ có chương
trình như sau :
«I–
Lập ra những giao ước cho hòa bình (covenant of peace) để công khai tiến
tới, sau đó sẽ không có những hiểu biết quốc tế dành riêng cho ai, mà đường lối ngoại
giao sẽ luôn luôn thẳng thắn và minh bạch với một quan điểm chung
«II–
Tự do tuyệt đối về phương diện hàng hải trên biển cả, ngoài những vùng lãnh hải thuộc chủ quyền
của các quốc gia, cũng giống như trong hòa bình và trong chiến tranh, ngoại trừ khi tất
cả biển cả đóng lại, hay một phần được đóng lại, được thi hành bởi luật pháp có trong giao ước quốc tế thì
phải được bảo đảm tuân theo.
«III–
Sẽ dẹp bỏ, càng nhiều càng tốt, tất cả những rào cản về kinh tế, và xây dựng
một tình trạng bình đẳng về mậu dịch giữa tất cả các quốc gia đã chấp thuận
tiến đến hòa bình, và tự các quốc gia thành lập nên một hội đoàn để duy
trì trật tự.
«IV–
Phải đưa ra một sự bảo đảm đầy đủ là những lực lượng võ trang phải được giảm bớt,
tới mức độ thấp nhất để tạo ra sự an toàn trong nội địa quốc gia.
«V–
Tự do mở rộng tâm hồn, và nhất định phải làm sao để đáp ứng sự thỏa mãn với những khát vọng độc lập của
các thuộc địa đang bị các đế quốc thực dân chiếm đóng, đô hộ và kiểm soát, trên căn bản
tuân hành trên những nguyên tắc đã quyết định về tất cả những khiếu nại và thắc mắc về những quyền
tối thượng của những quốc gia khao khát được đối xử bình đẳng và công bằng trên quyền
tự quyết.
«VI–
Sự rút khỏi tất các phần lãnh thổ của Nga, và một sự dàn xếp như thế cho tất
cả những đòi hỏi của Nga, và sẽ có những bảo đảm vững chắc nhất và tự do nhất, việc điều hành và
sinh sống của các quốc gia khác trên thế giới cũng phải đạt được cho các quốc gia đó. Họ không
còn bị ngăn trở cho nền độc lập để họ tự do phát triển chính trị và chính sách quốc gia và
quốc gia đó sẽ được hân hoan chào mừng tham gia vào xã hội của các quốc gia tự do mà quốc
gia đó tự lựa chọn.
«VII–
Về phần nước Bỉ, toàn thế giới sẽ đồng ý là quân đội ngoại nhập phải rút ra và phục hồi lại
quyền tối thượng, không bị giới hạn mà quốc gia đó được hưởng những gì là của chung của các quốc
gia tự do…
«VIII–
Tất cả lãnh thổ của Pháp phải được tự do, và phục hồi lại những phần đất bị xâm
lấn.
«IX—Một
sự điều chỉnh lại các vùng biên giới của nước Ý cần phải đạt được sự thừa
nhận một cách minh bạch những lằn mức thuộc Ý.
«X–
Những người thuộc nước Hung-Áo, nằm giữa các quốc gia. Chúng tôi mong ước được nhìn thấy
có sự bảo vệ và bảo đảm được hưởng cơ hội tự do nhất, để họ tự phát triển quốc gia của họ.
«XI–
Các vùng Rumania, Serbia và Montengro, những đoàn quân xâm lăng phải rút khỏi các
vùng đó mà họ đã chiếm đóng, phải phục hồi cho các quốc gia đó. Serbia được tự do và bảo đảm
có lại quyền với phần lãnh hải của họ; và trong những tương quan liên
hệ đến các nước ở vùng Balkans States, sẽ được vẽ lại lằn ranh thuộc quốc gia của
họ. Quốc tế sẽ bảo đảm quyền độc lập chính trị và kinh tế, cũng như toàn vẹn
lãnh thổ của các nước vùng Baltic.
«XII–
Những phần đất của Thổ Nhĩ Kỳ hiện có trong tay đế quốc Ottoman phải được bảo đảm với quyền
tối thượng. Những thành phần quốc gia khác sống dưới sự thống trị của Thổ Nhĩ Kỳ phải được bảo đảm an ninh
cho đời sống và các cơ hội để tự trị và phát triển.
«XIII–
Quốc gia độc lập của Ba Lan cần xây dựng bao gồm những lãnh thổ có dân Ba Lan đang
sinh sống. Họ phải được tự do và bảo đảm có quyền với vùng biển cũng như quyền độc lập về
chính trị và kinh tế và sự toàn vẹn lãnh thổ phải được bảo đảm bằng giao ước quốc tế.
«XIV–
Một «Hội» gồm tất cả các quốc gia phải được lập nên bởi một giao ước rõ ràng
cho mục đích là bảo đảm sự độc lập chính trị và toàn vẹn lãnh thổ cho nước lớn cũng như nước nhỏ.
«Phải
chấn chỉnh lại những sai lầm trầm trọng và phải khẳng định về những
quyền mà chúng ta tự cảm thấy là có được những người cộng tác
mật thiết với nhau trong những chính quyền và tất cả mọi người cùng hợp
tác với nhau để chống lại các Đế Quốc. Chúng ta không tách rời khỏi những quyền lợi hay
chia rẽ trong những mục đích đã đề ra.
«Vì
có những sắp xếp và giao ước, chúng ta muốn chiến đấu và tiếp
tục chiến đấu đế khi nào mục tiêu đạt được, cũng chỉ vì chúng ta mong ước những quyền căn bản tự
nhiên của tất cả con người phải được thừa nhận và tôn trọng và mong ước của chúng ta là làm
sao để xây dựng được một nền hòa bình công chính và ổn định (just peace and stable). Điều đó chỉ có thể
có được sự bảo đảm khi nào những tham vọng và xúi dục gây nên chiến tranh được chế ngự và
loại trừ. Chúng ta không có gì để ghen tuông đố kỵ trước cái vĩ đại
của nước Đức, và cũng không có ý định nào gây tổn thương cho nước Đức… Chúng ta không muốn gây nên những
thương tích cho nước Đức hay ngăn chặn tầm ảnh hưởng chân chính hay quyền lực của nước Đức… Chúng ta
không muốn quyết chiến với nước Đức bằng sức mạnh võ khí và tạo ra sự thù nghịch với những
sắp xếp về mậu dịch của nước Đức, nếu quốc gia này chịu tham gia vào tổ chức quốc tế mà
chúng ta đưa ra trong giao ước công lý và luật pháp cũng như sự công bằng.
Chúng ta chỉ mong ước nước Đức chấp nhận một chỗ đứng bình đẳng với tất cả con người trên toàn
thế giới này… Đó là một thế giới mới, trong đó chúng ta được sống, thay vì một chỗ đứng muốn làm
bá chủ để cưỡi đầu cưỡi cổ các quốc gia yếu đuối hơn mình.
«Chúng
ta cũng không đề nghị nước Đức có sự thay đổi những cơ cấu của họ…
«Bây
giờ chúng ta cất lên tiếng nói, chắc chắn ý nghĩa thật vững chắc. Đó là những
nguyên tắc được áp dụng cho toàn bộ chươngg trình mà tôi đã phác họa ra. Đó là nguyên tắc của
công lý cho tất cả mọi người, và tất cả các sắc dân, đó là quyền
của họ được sống trong ý nghĩa bình đẳng và tự do cũng như sự sống an toàn bên nhau; họ có thể là
người mạnh khỏe hay yếu đuối. Cho đến khi nào nguyên tắc của công lý này trở thành một nền móng…
Và người dân Hoa Kỳ sống và hành động trên cùng một nguyên tắc đó. Và đưa ra
để chứng minh về nguyên tắc đó, mà họ đã dâng hiến mạng sống của họ, danh dự của họ, và tất cả
họ đang có trong tay. Trên đỉnh cao của đạo đức có được từ nguyên tắc của công lý này, Hoa Kỳ đang đứng trên đỉnh núi cao
của một cuộc chiến tranh– Sau chót là cho tự do của con người; đã đến và sẵn
sàng để sử dụng sức mạnh của chính họ, mục đích cao cả của riêng họ, sự liêm chính
và chính trực của họ và sự dâng hiến cho thử thách lớn lao của chiến tranh,
không phải đi tìm chiến thắng, mà xây dựng hòa bình công chính, ổn định và một đời sống an
toàn cho các quốc gia và cho tất cả mọi người, trên toàn thế giới như Giao Ước Toàn Cầu đã đưa ra.»
Bức thông điệp của Tổng Thống Franklin Roosevelt đọc trước Quốc Hội Liên Bang
ngày 6 tháng 1 năm 1941
«Tôi
xin thưa với quý vị, những vị Dân Biểu và Thượng Nghị Sỹ trong phiên họp 77th
của Quốc Hội, trong lúc một sự kiên lịch sử chưa từng xảy ra trước đây của Liên
Bang. Tôi dùng chữ «chưa từng xẩy ra trước đây»; bởi vì trong quá khứ chưa bao giờ nền
an ninh của Hoa Kỳ lại bị đe dọa một cách nghiêm trọng như thế.
«Những người có đầu óc thực tế biết lối sống dân chủ đang bị tấn công trực tiếp khắp phần đất của thế
giới– tấn công bằng võ trang bạo lực, hay rao truyền một thứ tuyên truyền độc hại bởi
những con người đang tìm cách để phá hủy sự đoàn kết và cổ súy cho sự chia rẽ giữa người và người,
và giữa quốc gia này và quốc gia khác đang sống trong hòa bình.
«Chỉ
trong thời gian 16 tháng, những cuộc tấn công này đã tác động mạnh mẽ vào đời
sống dân chủ, trước sự kinh hoàng của nhiều quốc gia độc lập, nước lớn cũng như nước nhỏ. Những
kẻ tấn công vẫn ồ ạt tiếp tục tiến lên để đe dọa các quốc lớn cũng như nhỏ.
«Vì
thế, trong cương vị tổng thống, tôi phải đứng lên hành động mà trách nhiệm mà Hiến Pháp đã trao cho
tôi là, «trao cho Quốc Hội Liên Bang những tin tức quan trọng». Tôi thấy sự cần
thiết là phải phúc trình là trong tương lai, với sự an toàn của quốc gia, cũng như nền dân chủ
của chúng ta có liên hệ quá nhiều đến các biến cố nằm ngoài vùng biên giới
của chúng ta.
«Những
võ trang để phòng thủ và bảo vệ nền dân chủ hiện nay đang phải đối đầu vời những đe dọa trên
khắp bốn lục địa. Nếu sự phòng thủ và bảo vệ thất bại, tất cả người dân và tất
cả tài nguyên của Á Châu, Âu Châu, Phi Châu và Úc Châu sẽ bị những kẻ xâm lăng
thống trị. Hãy nhớ rằng, tất cả dân số và tài nguyên của họ trên bốn lục địa vượt hơn số dân và
tài nguyên phía Tây Bán Cầu rất nhiều.
«Không
có những người Mỹ thực tế và thực dụng, có thể kỳ vọng vào một nền hòa bình của những
thế lực độc tài trên trường quốc tế có tấm lòng khoan dung độ lượng, hoặc tôn
trọng nền độc lập chân chính, hay một thế giới được giải giới, hay con người có quyền được tự do bầy
tỏ ý kiến của họ, hay tự do tôn giáo, hay ngay cả làm ăn lương thiện
«Một
nền hòa bình như thế sẽ không bao giờ đưa đến an ninh cho chúng ta «những ai là người
sẽ từ bỏ những quyền cao quý để mua lấy một sự an toàn nhất thời, tạm bợ, thứ
tự do như thế có đáng gì đâu.»
«Là
một quốc gia, chúng ta hãnh diện với thực tế là chúng ta có những con tim rất
diu dàng và nhậy cảm, nhưng chúng ta không chịu để có những đầu óc yếu mềm
hay nhu nhược.
«Chúng
ta phải luôn luôn đề cao cảnh giác trước những con người trâng tráo
đi rêu rao thuyết giảng, tuyên truyền một thứ chủ nghĩa nhượng bộ đầu hàng.
«Đặc
biệt là chúng ta phải coi chừng trước những con người ích kỷ,
trí trá, lươn lẹo và quỷ quyệt như ma quỉ; đó chính là những kẻ muốn cắt lìa đôi cánh đại bàng của
chúng ta để lấy lông làm tổ cho chúng…
«Nhưng
chúng ta đã học hỏi được rất nhiều bài học trong quá khứ tại Âu Châu, Đặc biệt
là bài học lịch sử ở Norway, là những hải cảng then chốt đã bị cướp bởi những
kẻ phản bội, và đã xây dựng hàng loạt các cơ sở của chúng trong nhiều năm qua.
«Chừng
nào vẫn còn những quốc gia đi xâm lăng, hiếu chiến, cố gắng duy trì các cuộc tấn
công, chúng ta phải phản công lại những cuộc tấn công này của họ.
«Đó
là nguyên do đưa đến những đe dọa nghiêm trọng cho nền cộng hòa của nước Mỹ.
«
Đó là lý do thông điệp hàng năm trước Quốc hội là duy nhất có trong lịch sử.
«Đó
là tất cả những lý do cho tất cả các thành viên trong ngành hành pháp, và tất
cả các Dân Biểu, Nghị Sỹ trong Quốc hội đang phải đối mặt với
trách nhiệm nặng nề, và trọng trách trước những đe dọa nghiêm trọng hiện nay trên toàn
thế giới.
«Điều
cần thiết trong giờ phút này là những hành động của chúng ta, và chính sách của
chúng ta, đầu tiên dành phần lớn cho riêng chúng ta, để đương đầu nghiêm
trọng ở ngoại quốc; bởi vì trong tất cả những vấn đề trong nội
tình quốc gia, bao gồm một phần trong tình trạn khẩn cấp thật lớn lao…
«Nhưng chính sách quốc gia của chúng ta có những việc phải
làm đều đặt trên căn bản là tôn trọng những quyền tự
nhiên và tôn trọng nhân phẩm của tất cả đồng bào của chúng ta trong quốc gia của chúng ta. Vì lẽ đó chính sách đối ngoại của chúng ta cũng đặt trên căn bản
là tôn trọng tất cả những quyền tự nhiên, và tôn trọng nhân phẩm của tất cả người dân trobg các quốc gia khác; dù họ là một cường quốc hay nhược tiẻu, yếu đuối. Và đạo đức của công lý (the justice of morality)– sẽ phải, và chiến thắng vào giờ
sau chót.
«Chính
sách quốc gia của chúng ta như sau :
«Thứ
nhất, với sự thể hiện sâu sắc để thể hiện ý chí của toàn dân, không phải ý chí của đảng phái,
chúng ta cam kết với trách nhiệm quốc phòng để bảo vệ quốc gia.
«Thứ
hai, bằng sự thể hiện sâu sắc ý chí của toàn dân, không phải ý chí của đảng phái,
chúng ta cam kết hỗ trợ toàn diện cho những người quyết chí khắp mọi nơi, đó là những ai
đang đứng lên chống lại mạnh mẽ, những cuộc xâm lăng hiếu chiến, và nhờ đó chúng ta
giữ cho chiến tranh không tác hại trên phần đất của chúng ta, bằng những hỗ trợ để nói lên sự
quyết tâm của chúng ta là chính nghĩa dân chủ sẽ chiến thắng, và chúng gia tăng
sức mạnh quân sự và quốc phòng, và bảo vệ an ninh của chúng ta.
«Thứ
ba, bằng một sự thể hiện sâu sắc ý chí của toàn dân, và không phải ý chí của đảng phái,
chúng ta cam kết với mục tiêu đó là những nguyên tắc của đạo đức (principle
of morality), và suy tính cẩn trọng về an ninh quốc gia của chúng ta sẽ không
bao giờ cho phép chúng ta chấp nhận sống trong một nền hòa bình độc tài của
những kẻ xâm lăng, vì nó được bảo trợ bởi những kẻ nhượng bộ đầu hàng.
Chúng ta biết rằng một nền hòa bình lâu dài không thể mua bằng sự mất mát tự do
của bao triệu người khác.
«Vai
trò cấp thời của chúng ta là hành động như một tiền đồn của tự do
dân chủ cho thế giới và cho cả chính chúng ta. Họ không cần nhân sự, họ cần có
những võ khí đáng giá cả tỉ dollars… .
«Chúng
ta hãy nói cho các quốc gia và những người dân chủ : «chúng tôi là những
người Mỹ quá ưu tư lo lắng việc bảo vệ tự do. Chúng tôi cung ứng những năng lực của
chúng tôi, những tài nguyên của chúng tôi để gởi tới những người đang cần phải
có, những tàu bè, những chiếc xe tăng, những loại súng đạn. Đây là mục đích và cam
kết của chúng tôi».
«
Tất cả chúng ta phải sửa soạn sẵn sàng hy sinh cho một tình thế khẩn cấp này.
Tình thế rất nghiêm trọng là những đòi hỏi cần phải có cho một cuộc chiến
tranh. Phải sửa soạn nhanh chóng và hiệu quả để bảo vệ và đáp ứng nhu cầu cần thiết
của quốc gia, một quốc gia tự do có quyền được đòi hỏi sự hợp tác của mọi phe nhóm.
«Con
người không chỉ chiến đấu bằng võ trang súng đạn mà thôi. Với những người sẽ bảo vệ
và chống đỡ cho chúng ta, cần sự hỗ trợ đứng đằng sau những người đang chiến đấu, phải có
khả năng chịu đựng và can đảm, với niềm tin tưởng không thể lay chuyển được trong việc
bảo vệ đời sống. Hành động hùng mạnh mà chúng ta réo gọi phải nhìn thấy tất cả
những gí xứng đáng để phải chiến đấu.
«Chắc
chắn không có khi nào mà chúng ta ngừng suy nghĩ về những vấn đề xã hội và
kinh tế, đó là những nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc cách mạng xã hội. Ngày
hôm nay là ngày tối quan trọng cho cả thế giới.
«Vì
không có gì thần bí về một nền móng căn bản để xây dựng một nền dân chủ lành mạnh và
vững chắc. Điểm căn bản mà người dân mong ước là một hệ thống chính trị và kinh tế đơn giản. Họ
Chỉ mong :
«–
Bình đẳng trong các cơ hội cho lớp trẻ và những thành phần khác.
«–
Phải có công ăn việc làm cho những ai cần việc làm để sống.
«–
Phải có an sinh xã hội cho ai cần phải có.
«–
Chấm dứt những đặc quyền, đặc lợi cho một thiẻu số.
«–
Được hưởng những thành quả về những tiến bộ khoa học, kỹ thuật, luôn luôn nâng cao
tiêu chuẩn sống…
«Trong
những ngày sắp tới, chúng ta tìm kiếm để có sự bảo đảm. Chúng ta
cầu mong thế giới này được xây dựng trên những quyền tự do cốt yếu :
«Thứ nhất, Quyền tự do ngôn luận, và quyền bày tỏ ý
kiến, khắp mọi nơi trên thế giới.
«Thứ hai, Mọi người đều có quyền tự do tôn giáo để thờ lạy Đấng Tạo Hóa
theo cách riêng của họ, khắp mọi nơi trên thế giới.
«Thứ ba, Quyền tự do tìm kiếm những hiểu biết về
kinh tế, đó là điều sẽ bảo đảm cho các quốc gia trong đời sống, trong thời gian hòa bình cho
những người dân của họ, khắp nơi trên thế giới.
«Thứ tư, Tự do thoát khỏi sự sợ hãi, có nghĩa là trên tầm mức rộng lớn của thế
giới, phải giảm bớt lực lượng võ trang tới tầm mức, để cho không có quốc gia nào có thể phạm
vào tội xâm lấn để chống lại bất cứ quốc gia lân bang nào, khắp nơi trên thế
giới.
«Đây không phải là một viễn kiến xa xôi của ngàn năm sắp
tới. Đây chỉ là điều căn bản mà cả thế giới có thể đạt được trong thế hệ của chúng
ta và thời đại của chúng ta. Một thế giới như thế chính là một phản đề đối đầu với thứ trật tự của những kẻ độc tài, mà những kẻ độc tài tìm cách xây dựng
lên bằng chiến tranh và bom đạn.
«Để đi đến một trật tự mới, chúng ta chống lại những kẻ độc tài bằng quan niệm lớn lao hơn– đó là TRậT Tự CủA ĐạO ĐứC. Một xã hội
tốt đẹp và lành mạnh phải có khả năng đối mặt với thế giới thống trị bởi những kẻ độc tài, từ
cuộc cách mạng ngoại lai mà không hề biết sợ hãi.
«Ngay
từ ngày khởi đầu của lịch sử Hoa Kỳ, chúng ta đã từng dấn thấn vào những cuộc thay đổi trong một
cuộc cách mạng bất bạo động, một cuộc cách mạng tiến lên thật vững chắc, tự điều chỉnh một
cách êm thắm để đưa đến những thay đổi thật tốt đẹp– mà không cần tới bạo lực và những
trại tập trung, hay phải chiến đấu tới giọt máu cuối cùng.
«Một
trật tự mới mà chúng ta tìm kiếm, là sự hợp tác giữa các nước tự do, làm việc
sát cánh bên nhau, trong tình bằng hữu thân thiện, và một xã hội văn minh.
«Quốc
gia này đặt định mệnh của đất nước vào tay những khối óc và những con tim của triệu con
người tự do– có cả đàn ông và đàn bà, và
«Đặt Trọn Vẹn Đức Tin Của Tự Do Dưới Sự Soi Sáng Và Hướng
Dẫn Của Thiên Chúa (The Guiding Of God).
«Chúng
ta coi quyền căn bản tự nhiên của con người, là tối cao, khắp nơi trên thế giới. Sự hỗ trợ của chúng ta
dành cho những ai tranh đấu để có những quyền căn bản tự nhiên (natural right) hay duy
trì và bảo vệ những quyền ấy. Sức mạnh của chúng ta là nằm ở tình đoàn kết keo
sơn cho mục đích chung.
«Để giữ được quan niệm cao cả với những nỗ lực phi thường sẽ đưa đến một kết thúc là chiến thắng vinh quang để cứu vớt tự do và những quyền tự nhiên của con người, khắp nơi trên thế giới.»
Hiến chương Liên Hiệp Quốc
We the people of the
United Nations… do hereby establish an International Organization
Vào ngày 25 tháng 4 năm 1945 các đại biểu đại diện cho 50 quốc gia. Họ đại diện cho 3/4 dân số khắp mặt đất tụ tập tại Open House, San Francisco. Mặc dù khác biệt
về ngôn ngữ, đức tin tôn giáo, phục sức, và lối sống, những người đại biểu đã chia sẻ với nhau một mục tiêu vô cùng
lớn lao, đó là
lập nên một tổ chức cho cả thế giới nhờ đó «sẽ cứu vãn cho
những thế hệ sắp tới không còn bị những tai họa chiến tranh nữa»
Với sự cam kết cho một mục tiêu rộng
lớn và cao thượng để giữ cho các đại biểu quần tụ khắng khít bên nhau, đã dành nhiều tuần lễ
tranh luận và thảo luận sôi nổi. Cuối cùng, sau khi các đại biểu đều đã đồng ý trên nội dung đã viết xuống– đó là bản Hiền Chương Liên Hiệp
Quốc, bản dự thảo đã được hoàn tất, và đã được gởi tới những quốc gia để họ phê chuẩn và ký vào đó. Hoa Kỳ đã tham gia vào đó. Chỉ có hai
phiếu không đồng ý tại Thượng Viện Hoa Kỳ. Mỗi quốc gia
đều ký và phê chuẩn (ratification) Hiến Chương như một bản Hiến Pháp Toàn Cầu (Global Constitution), Và vào
ngày 24 tháng 10 năm 1945, bây giờ đã chính thức làm lễ ăn mừng vô cùng trọng thể ngày của Liên Hiêp Quốc, một
tổ chức của thế giới vừa mở mắt chào đời như một hứa hẹn đầy hào quang sáng lạn chiếu xuống từ
trời cao.
«Ngày 24 tháng 10 năm 1945
«We the peoples
of the United Nations, determined
«Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đã
được xác
định
«Để
cứu vãn cho các thế hệ tương lai thoát khỏi những tai họa của chiến tranh, đã xảy ra hai
lần, Thế Chiến I và Thế Chiến II đã đưa đến sự thống khổ tơi bời cho cả nhân loại, và tái xác nhận
với niềm tin vào bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền, tin vào nhân phẩm và sự xứng đáng của tất
cả con người, tin vào những quyền bình đẳng của những người Nam cũng như Nữ, và tin
vào các quốc gia lớn cũng như các quốc gia nhỏ.
«Để
thiết lập nên những điều kiện thực thi công lý, và tôn trọng những trách vụ đã được đưa ra trong
những thỏa ước và những luật lệ quốc tế để có thể duy trì và đề cao sự tiến bộ xã hội và tiêu
chuẩn sống tốt đẹp trong thế giới tự do.
«Và để đi đến cứu cánh là Thực thi lòng
bao dung độ lượng, và sống với nhau trong hòa bình, như những người anh em
láng giềng lương thiện.
«Để
đoàn kết sức mạnh, để duy trì và bảo vệ hòa bình và an ninh của thế giới.
«Để
bảo đảm, bằng cách chấp nhận những nguyên tắc và những phương pháp do
các cơ cấu đưa ra, đó là sẽ không được sử dụng vũ lực, những quyền lợi phải được bảo vệ.
«Và
dùng guồng máy quốc tế để đề cao tiến bộ kinh tế và xã hội cho tất cả mọi người.
«Quyết
tâm kết hợp mọi nỗ lực của chúng ta đạt cho được những mục tiêu đã đề ra.
«Theo
đó, những chính quyền riêng của mỗi quốc gia, qua những vị đại diện của
họ tụ họp lại với nhau tại thành phố San Francisco, là những người đã biểu dương trọn vẹn
quyền năng của họ để xây lên mọi sự tốt đẹp, đều đã đồng ý để trình ra bản Hiến
Chương Liên Hiêp Quốc và nhờ đó để thành
lập nên một tổ chức quốc tế, được mọi người biết tới– đó là Liên Hiệp Quốc.
«Những mục đích và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc
«Điều khoản I
«1–
Duy trì và bảo vệ hòa bình, an ninh quốc tế, đi đến những cứu cánh để đưa đến những hành
động tập thể đầy hiệu năng để ngăn chặn, và loại bỏ những đe dọa cho hòa bình, và những hành động áp chế đến từ những
hành động xâm lấn của các đế quốc hay là những vi phạm nền hòa bình, và giải
quyết bằng những phương tiện hòa bình, và tất cả tuân thủ theo những nguyên
tắc công lý (the principle of justice), và tuân thủ theo luật pháp quốc tế để điều chỉnh hay
dàn xếp những tranh cãi quốc tế hay tình trạng có thể dẫn tới những vi phạm cho
nền hòa bình.
«2–
Phát huy tinh thần thân thiện trong mối tương quan liên hệ giữa các quốc gia đặt trên căn
bản tôn trọng những nguyên tắc về quyền bình đẳng và tự quyết của những người trong các
quốc gia, và sử dụng tất cả những gì thích hợp để làm cho nền hòa bình của thế giới ổn
cố vững vàng.
«3–
Phải đạt được sự hợp tác quốc tế để cùng nhau giải quyết những vấn đề quốc tế như kinh tế, xã
hội, văn hóa hay tính chất nhân đạo, xiển dương và khuyến khích tôn trọng những
quyền căn bản tự nhiên cho tất cả mọi người không phân biệt chủng tộc, giới
tinh, ngôn ngữ hay tôn giáo. Và
«4–
Phải tập trung hội tụ tinh thần hòa đồng hợp nhất trong tất cả mọi hành động
của các quốc gia để cùng nhau đạt được những cứu cánh chung.
«Điều khoản II
«–
Tổ chức Liên Hiệp Quốc được thành lập trên căn bản là tôn trọng quyền tối thượng của tất
cả các quốc gia thành viên trong Liên Hiệp Quốc.
«2–
Tất cả các quốc gia thành viên sẽ dàn xếp những cuộc xung đột, tranh cãi
quốc tế bằng những phương tiện hòa bình, an ninh và đặc biệt là công lý, không
nên gây ra những sự nguy hiểm.
«4–
Tât cả các thành viên phải kềm chế đừng có những đe dọa trong
mối tương quan liên hệ với các quốc gia khác hay dùng vũ lực để vi phạm
quyền toàn vẹn lãnh thổ hay độc lập chính trị của bất cứ quốc gia nào, hoặc những hành
vi mâu thuẫn với những mục đích của Liên Hiệp Quốc.
«5–
Tất cả các thành viên phải trợ giúp Liên Hiệp Quốc trong những hành động mà
Hiến Chương Liên Hiệp Quốc đã đề ra, sẽ kềm chế không trợ giúp cho bất cứ quốc gia
nào chống lại Liên Hiệp Quốc để ngăn cản những hành động thi hành luật pháp của Liên Hiệp
Quốc.
«6–
Tổ chức sẽ bảo đảm là các quốc gia không phải thành viên của Liên Hiệp Quốc có thể hành động
theo những nguyên tắc cần thiết để duy trì hòa bình, và an ninh quốc tế.
«7–
Không có điều khoản nào trong Hiến Chương Liên Hiệp Quốc hiện nay cho phép Liên
Hiệp Quốc can thiệp vào những vấn đề hệ trọng thuộc quyền tài phán nội
tình của các quốc gia. Những nguyên tắc này sẽ không có thành kiến cho việc áp
dụng những phương tiện trong điều khoản VII.»
Hiến chương Bắc Đại Tây Dương (NATO)
Vào ngày 14 tháng 8 năm 1949, sau khi đại
hội kéo dài thêm vài ngày, hai nhà lãnh đạo Hoa Kỳ và Anh quốc là Franklin
Roosevelt và Winston Churchill đã đưa ra một tài liệu được gọi là the Atlantic Charter. Họ nhân danh chính quyền Hoàng Gia Anh và Hoa Kỳ đã gặp nhau và cho rằng phải đưa ra những
nguyên tắc chung trong những chính sách quốc gia riêng của mỗi quốc gia, trên đó
họ hy vọng để xây dựng một tương lai tốt đẹp cho cả thế giới. Tôn trọng nhân phẩm của mọi người trong các quốc gia.
Thứ nhất, đất nước của
họ không có chủ trương để mở
rộng đất đai, lãnh thổ.
Thứ hai, họ không ham muốn để có những thay đổi về lãnh thổ, không muốn thấy là không được sự tán
thành của những người có quyền để nói lên ước muốn của họ.
Thứ ba, họ tôn trọng những quyền căn bản tự nhiên của tất cả mọi người, tự do chọn lựa những hình
thức chính quyền– ở đó họ sống, và muốn thấy quyền tối thượng và quyền tự trị của một chính quyền do dân thành lập–
một chính quyền của dân, do dân và vì dân được phục hồi lại từ tay của những
thế lực ngoại lai đã cướp mất đi của họ.
Thứ tư, họ sẽ giữ đúng những trách vụ hiện nay của họ, mà
tất cả các quốc gia đều muốn như thế cả, đó là quốc gia lớn hay nhỏ, kể cả những người chiến thắng hay những kẻ bại trận, đều có quyền bình đẳng trong mậu
dịch hay tài nguyên chưa được khai thác cho mục đích kinh tế.
Thứ năm, họ muốn tiến tới một sự hợp tác toàn
diện giữa tất cả các quốc gia trên lãnh vực kinh tế. để có sự bảo đảm cho tất cả, cải thiện tiêu chuẩn lao
động,
kinh tế và an sinh xã hội.
Thứ sáu, sau những tàn phá của chế độ độc tài Nazi, họ hy vọng xây dựng hòa
bình cho tất cả các quốc gia, được sống an toàn trên quê hương của họ với cuộc sống không
còn phải sợ hãi, và làm những gí họ muốn.
Thứ bẩy, Một nền hòa bình như thế cho phép tất cả con người có quyền di chuyển trên các
vùng biển cả, và các đại dương mà không bị ai ngăn trở.
Thứ tám, họ tin tưởng rằng tất cả các quốc gia trên toàn thế giới, với
những lý do tinh thần, phải đi đến chỗ chấm dứt việc sử dụng vũ lực khi nền hòa bình trong tương lai
có thể duy trì được trên mặt đất, vùng biển hay vùng trời, tiếp tục được sử dụng
bởi các quốc gia, có những đe dọa hay sẽ bị đe dọa xâm lăng từ bên ngoài, họ tin rắng việc xây dựng
một hệ thống mở rộng và thường trực cho nền an ninh chung của thế giới chưa được giải quyết. Vì lẽ đó, việc giải giới các quốc gia
là điều then chốt. Họ sẽ viện trợ và khuyến khích tất cả mọi dự tính thực tiễn
sẽ làm nhẹ đi gánh nặng võ trang cho tất cả con người yêu chuộng hòa bình.
Franklin D. Roosevelt
Winston Churchill
No comments:
Post a Comment