Chiếc
búa khảo cổ và cái chết bi thảm
của Khảo cổ gia Nghiêm Thẩm
Trích hồi ký của Linh mục Vũ Đình Trác
Giáo sư nhân chủng và khảo cổ học Nghiêm Thẩm sinh
ngày 13-5-1920 tại Hà Đông, nay thuộc thành phố Hà Nội.
Thuở nhỏ ông học ở Hà Nội, sau du học ở Pháp, tốt
nghiệp l’Ecole du Louvre Paris,de MaséologiePháp.
Năm 1956, ông về nước làm việc tại Viện Khảo Cổ Sài
Gòn. Năm 1964, ông giữ chức Giám đốc Viện này kiêm Quản thủ Viện Bảo Tàng Quốc
Gia Sài Gòn từ năm 1968 đến năm 1975.
Từ năm 1961, ông làm giáo sư tại Đại Học Văn Khoa Sài
Gòn, và Trường Quốc Gia Cao Đẳng Mỹ Thuật Gia Định.
Năm 1969, ông là ủy viên ủy ban Khoa học Nhân văn của
Hội đồng Quốc gia Khảo cứu khoa học Nam Việt
Trong khi giữ những chức vụ trên ông vẫn là giáo sư
nhân chủng học tại Đại học văn khoa Sài Gòn cho đến năm 1975. Sau đó, ông vẫn
giảng dạy tại Đại học Tổng hợp thành phố HCMcho đến ngày bị giết tại nhà riêng
vào năm Nhâm Tuất (1982).
Ông có mấy chục tác phẩm đã xuất bản gồm cả tiếng
Pháp lẫn tiếng Việt.
(Nguồn: Tri Thức Việt)
***
Nghiêm-Thẩm được nhà nước CHXHCN Việt-Nam cho là nhà
khảo-cổ và nhân-chủng học xuất-sắc. Chính sự xuất sắc lỗi lạc đã đưa ông đến
cái chết vô cùng bi thảm.
Tôi quen Nghiêm-Thẩm từ 1978, khi tôi được mời vào
làm việc trong nhóm ngữ-học của Thanh-Lãng nhân một hôm có cuộc hội-thảo về
tài-liệu cổ. Khi tôi trình-bày một tài-liệu cổ văn-học Việt qua cuốn Bách Việt
Tiên-Hiền chí rút trong Đại Bộ Dã-sử Trung Hoa Lĩnh-Nam di thư. Như thoáng ngửi
thấy mùi cổ kính quen thuộc, Nghiêm-Thẩm ngậm dọc tẩu đúng điệu «đế- quốc» đến bên cạnh tôi. Ông chỉ hỏi
tôi một câu:
- Linh-mục
được biết tới tài-liệu đó hay hiện đã nằm trong tay?
Tôi bảo ông:
- Hiện tài-liệu đó đang nằm trong tủ
sách của tôi.
Ông nhắp nhắp dọc tẩu hai ba cái, quay về chỗ cũ, có
vẻ đắc ý.
Ngay sau khi tan hội, ông tới phòng tôi để nhìn tận
mắt tập tài-liệu cổ đó.
Ông bảo tôi:
- Tài-liệu
này rất quý, tụi Pháp mà vớ được tài-liệu này, nó có thể làm truyện lớn. Tụi
cộng-sản Bắc-Việt cũng chưa có. Linh-mục đừng để tụi nó đánh hơi thấy mà rầy-rà
đấy. Riêng tôi có một tượng đồng đen nhỏ, một cái búa khảo cổ rất quý và một ít
sách hiện nay không tìm đâu ra, mà tụi nó săn như săn vàng ấy.
Chúng tôi uống với nhau vài ly rượu thuốc, rồi ông ra
về.
Mối duyên khảo cổ
Sau buổi sơ-giao ấy, Nghiêm-Thẩm luôn luôn có dịp gặp
tôi, lúc thì ở phòng họp, khi thì ở nhà riêng. Tôi cho ông xem những tài-liệu
cổ về văn-học Bách-Việt và những tài-liệu liên-quan đến văn học cổ Việt-Nam,
hiện nay được tàng-trữ tại thư-viện Quốc-hội Nhật-Bản.
Có lần ông bảo tôi:
- Tôi say
mê mấy cái đồ cổ này còn hơn mê gái nữa, linh-mục ạ.
Ông cũng mời tôi đến nhà riêng tại vùng Trương-minh-Giảng,
để nhìn chiếc búa khảo cổ và những sách quý của ông.
Ông nói:
- Chiếc
búa khảo cổ này, bao nhiêu người đòi mua, nhất là người ngoại quốc, mà tôi
không bán. Có người dám trả tới 200 dola. Tôi còn một tượng đồng đen nhỏ, mà
tụi nó quý hơn vàng. Nghe nói tụi nó có thể bán cho Nga-Xô bằng một giá rất
đắt. Tụi Nga dùng đồng đen trong kỹ-nghệ nguyên-tử. Tôi sợ tụi nó «chớp», nên
trao cho một người bạn giữ hộ.
Lần khác tôi tới nhà ông, gặp luôn cả người bạn quen
từ hồi còn lưu học tại
Nghiêm-Thẩm không ngại nói thẳng với tôi:
- Bà NTD
mới làm hôn-thú với tôi, để cùng đứng đơn xin đoàn-tụ với ba má ở
Chị NTD cũng hay nói lại nhiều truyện cũ tại
Có lần chị NTD nói với tôi:
- Anh
Nghiêm-Thẩm là một nhà khoa-học thuần- túy, nên anh thiếu sự đưa-đẩy
uyền-chuyển, khi giao tiếp với công-an cán-bộ.
Nghiêm-Thẩm tính ít nói - hay đúng ra ít nói những
truyện không thuộc khoa khảo-cổ của ông –
Ông thường bảo tôi:
- Linh-mục
phải giữ bí-mật những tài-liệu cổ này, kẻo tụi nó đánh hơi được thì phiền to;
chiếc búa khảo cổ của tôi, tụi nó cũng biết rồi, mà cứ nay đứa này, mai đứa
khác đến hỏi thăm và đòi xem.
Mỗi lần gặp nhau, ông lại cho tôi xem ít tài liệu cổ
của ông - phải chăng ai thích đồ cổ, mới được Nghiêm- Thẩm đãi-thị như vậy.
Chị NDT vẫn bảo tôi:
- Anh Thẩm
quý cha lắm, mới tiết-lộ những bí-mật của anh như thế.
Riêng tôi cũng cảm thấy Nghiêm-Thẩm quý tôi, mà tôi
cũng quý Nghiêm-Thẩm. Hai chúng tôi mới quen nhau, mà thân nhau rất mau, chỉ vì
mối duyên khảo cổ.
Có lần Ông xác nhận:
- Tôi, một
người ngoại giáo, quen thân với một linh-mục công-giáo, vì tôi mến chân tình
của Cha và chí-hướng của cha.
Lần lần đi tới chỗ thân mật, anh đã bỏ được hai chữ
linh-mục, để gọi tôi là anh.
Một biến-cố trong đời Nghiêm-Thẩm
Bỗng một hôm tôi được mấy chữ của Nghiêm-Thẩm do một
sinh-viên đem tới.
Anh viết: «Chiều
nay tôi muốn gặp anh nói vài truyện quan- trọng lúc 4 giờ. Nếu anh không
ngăn-trở gì, xin cho biết». Thẩm.
Tôi nhận lời. Anh đến đúng giờ với chiếc xe đạp cũ-
kỹ. Như mọi lần, sau một ly rượu bổ «Tam-Tài»,
anh tiêm thuốc vào dọc tẩu, hít vài hơi, rồi vào truyện ngay:
Hôm nay tôi có truyện cần bàn với anh, vì ngoài anh
ra chả biết nói với ai. Năm ngoái, thằng Lê-Duẩn từ Bắc vào, đi với
Nguyễn-Tuân, nó gặp tôi ở khách-sạn Majestic, cho ăn uống thật ngon lành đúng
điệu, rồi nó ca-tụng. Sau cùng nó bảo:
- Anh là
một nhà khảo-cổ danh tiếng, cả người Pháp người Việt đều biết và ca-tụng. Bây
giờ vì quốc- gia đại sự, tôi yêu-cầu anh tận dùng tài-năng để phụng- sự
Tổ-quốc.
Tôi không biết truyện gì mà Lê-Duẩn nói lời trịnh-
trọng quá vậy. Tôi bảo hắn:
- Xin Tổng
Bí Thư cứ cho biết ý-kiến, tôi sẽ cố-gắng, nếu có thể.
Hắn liền nói ngay một cách trôi chảy:
- Anh
Nghiêm-Thẩm, chắc anh biết: cả thế giới đang coi Việt-Nam mình như «đỉnh cao
trí-tuệ loài người», mà anh cũng được vinh-dự ấy. Việt-Nam chúng ta phải làm
chủ miền Đông-Nam-Á này. Mọi yếu tố làm chủ hầu như đã đầy đủ, chỉ còn thiếu
một điều ...
Từ trước tới nay, mấy thằng chép sử «nhãi-ranh» vẫn cho rằng: nguồn-gốc các
sắc-tộc miền Đông-
Tôi im-lặng một phút... trả lời hắn:
- Uy-tín
của tôi lúc này là nói đúng và nói thật. Theo các tài-liệu khoa-học hiển-nhiên,
nhất là khoa khảo-cổ học và nhân-chủng học quá rõ-ràng, tôi không thể viết thế
khác được. Viết như đồng-chí nói là phản khoa-học.
Hắn mỉm cười, bảo tôi:
- Anh nói
thế tức là còn đang ở trong vòng gò-bó của sách vở, của óc đế-quốc, của hủ-hậu,
chứ không theo sử-quan một tí nào cả.
Tôi cảm thấy tức đầy ruột, và thực-sự lúc ấy tôi nhìn
thằng Lê-Duẩn như một con chó chết đê hèn, nên tôi hơi bạo lời:
- Nếu tôi
viết như thế, thì các nhà khảo-cổ và nhân- chủng-học trên thế-giới sẽ cho tôi
và cả chế-độ tôi phục- vụ là con chó chết. Tôi không bao giờ làm truyện sa-đoạ
ấy.
Lê-Duẩn vẫn không lộ vẻ tức-giận. Hắn hỏi tôi
vắn-tắt:
- Anh nhất
định không làm truyện đó?
Tôi bỗng tìm được một danh-từ xưng-hô, trả lời hắn:
- Tôi
không thể đáp-ứng yêu-cầu của đàn-anh trong việc này.
Lê-Duẩn ném cho tôi một cái nhìn có vẻ dữ tợn với câu
nói cộc-lốc:
- Anh nhất
định thế... Mong anh đổi ý.
Tôi cũng nhìn thẳng vào mặt hắn, trả lời cương-
quyết:
- Tôi
không bao giờ đổi ý.
Hắn ra đi, không nói thêm nửa lời.
Tôi coi đó như một biến-cố đổ-vỡ trong đời tôi, dưới
chế-độ khốn-nạn này. Nhưng tôi thà tan vỡ cả tấm thân với cả chế-độ này, còn
hơn đổ vỡ cho đất nước tôi, cho chí-hướng và danh-dự học thức của tôi.
Và một vinh-dự rẻ tiền.
Nghiêm-Thẩm trầm ngâm một vài phút, kể tiếp:
Sau lần gặp Lê-Duẩn ấy, tôi đinh-ninh tụi nó sẽ tìm
cách hủy-diệt tôi. Nhưng lạ lùng: cách đây hai tháng, Bộ-trưởng Thông-tin cùng
với Phạm-huy- Thông, giám-đốc khảo-cổ Bắc-Việt và mấy thằng Bộ- trưởng khác, mà
tôi không cần biết mặt biết tên, mời tôi đi họp tại một khách-sạn ở Saigon,
chúng đổi tên là Hữu-Nghị. Chúng nó đưa đón tôi bằng xe Mercedes và tiếp-đãi ăn
uống rất sang. Tôi đã ngán tụi nó, nên khi đồng bọn đề-cập vấn đề khảo-cổ và
nhân-chủng-học, tôi chỉ ư hự, không góp ý kiến nào, cũng không tiết lộ bất cứ
một tài-liệu nào. Tôi chỉ hứa viết cho Phạm-huy-Thông một bài trong tạo-chí
khảo-cổ của anh.
Bộ-trưởng Thông-tin bảo tôi:
- Mong anh
Nghiêm-Thẩm tích-cực đóng góp tài liệu và kiến-thức, để chúng ta tham-dự
Đại-Hội khảo- cổ tại Mắc-cơ-va kỳ tới. Và nếu có thể, chúng tôi cũng cần sự góp
mặt của anh trong phái-đoàn đi dự hội.
Tôi trả lời thẳng thắn:
- Trước
đây tổng bí-thư có nói với tôi nhiều về khảo cổ và nhân-chủng-học, nhưng tôi
không có một chiều- hướng nào khác với sự cố-định của tài-liệu khảo cổ. Cũng
xin miễn đi hội-họp, vì tôi có nhiều ý-kiến đối- nghịch, sẽ bất lợi cho
Đại-Hội.
Ông ta chỉ
nói một câu:
- Cái đó tùy
anh.
Sau ba bốn
ngày đưa đón, đãi-ngộ tôi, không đem lại kết quả nào, Bộ-trưởng Thông-tin bảo
tôi:
- Anh chưa đủ thành-thực.
Tôi nghe câu
đó như một bản án kết tội; từ đó tôi bắt đầu chán sống. Bà NTD bảo tôi:
- Thái độ như vậy không hay. Coi chừng tụi nó cho mình là
phản chế-độ, là bất hợp-tác. Anh nên mềm dẻo với tụi nó thì hơn.
Nhưng tôi
không thể làm khác được.
Tôi chỉ biết
thông-cảm nỗi lòng của anh: nghe theo không được, mà không nghe theo cũng không
xong.
Những điềm gở của tan vỡ
Vào thượng tuần
tháng 11, 1979, sau khi tham dự hội-thảo ngữ-học với phái-đoàn Nga-Xô,
Nghiêm-Thẩm tới phòng tôi nói truyện. Hôm ấy con người anh có dáng điệu
chán-nản và bi-quan lạ thường. Câu truyện anh nói hôm nay cũng đượm màu kỳ-bí
không vui. Thái-độ của anh hôm nay cũng khác lạ. Anh nói với tôi đúng giọng một
«con chiên»:
- Có lẽ tôi
phải xin anh rửa tội, để vào đạo, nấp bóng từ-bi của Đức Chúa, mong niềm an-ủi phù-trợ của Ngài.
- Lúc này tôi chán-nản hết rồi, mấy hôm nay nhiều điềm gở
lạ xảy đến, làm tôi hết sức hoang-mang e-ngại, anh ạ... Hôm thứ Hai vừa qua tôi
đang đọc sách trước sân bên cạnh giàn hoa, đột nhiên có hai con chim đánh nhau
trên trời rơi xuống chết ngay trước mặt dưới chân tôi. Tự nhiên tôi cảm thấy
như có gì rợn rùng sắp tới. Rồi hôm qua, bể cá của tôi có ba con cá rất đẹp tôi
vốn ưa thích, bỗng dưng ba con cá ấy cũng lăn ra chết. Vì thế, mấy hôm nay hình
ảnh của cái chết-chóc ám- ảnh tôi hoài. Bà NTD cho đó là những điềm rất gở. Có
lẽ tụi nó sắp hại tôi.
Không biết
an-ủi anh thế nào, tôi chỉ trấn an anh:
- Nếu anh coi đó là điềm dữ, thì nên giữ mình thận-trọng
hơn. Tôi cầu mong anh thoát ly mọi tai-biến.
Chúng tôi
chia tay nhau một cách buồn thảm, chỉ nói với nhau một câu đồng vọng:
- Số phận chúng mình dưới chế-độ cộng-sản chỉ có thế.
***
Sau đó tôi
được cấp giấy phép đi giảng dạy Đông-y tại Cần-Thơ. Sau mấy tuần lễ, trở lại
Chí-Hòa, đến thăm LTN, thì anh cho biết:
- Nghiêm-Thẩm đã chết cách đây hai tuần, tức vào cuối
tháng 11,1979...
Vào lúc 11
giờ trưa, có hai kẻ lạ mặt tông cửa vào nhà anh, lúc ấy chị NTD vắng nhà, chỉ
có người cháu gái ở nhà trong. Tụi nó giơ súng áp đảo Nghiêm-Thẩm, bắt anh đưa
nộp chiếc búa khảo cổ. Nhận được chiếc búa, chúng đập vào đầu anh ba búa. Anh
nằm chết trên vũng máu.
Hai tên sát
nhân lấy chiếc búa bỏ chạy, trước sự chứng-kiến trộm của người cháu.
Cô này vội đi
tìm chị NTD về. Công-an Thành đến điều-tra, lập biên-bản và tức khắc niêm-phong
tủ sách của Nghiêm-Thẩm. Chị NTD đứng lo mai-táng cho anh. Có ít bạn đồng
nghiệp tiễn đưa anh về nghĩa-địa...
Bạn bè ngồi
lại kể truyện Nghiêm-Thẩm, mới biết anh đã tiết-lộ những điềm gở trên đây cho
sáu người, trước khi chết mười ngày.
Lúc này mọi
người chỉ còn biết ngồi lại, âm-thầm tưởng-niệm một người bạn đáng kính, đã ra
đi tức- tưởi, không bao giờ trở lại.
Anh LTN và
NTN mời anh em nâng ly rượu, chiêu hồn Nghiêm-Thẩm về, để chứng-kiến mối hận
ngàn trùng của anh chị em trí-thức Việt-Nam dưới bàn tay đẫm máu của cộng-sản.
Anh NTN
đại-diện anh chị em ngâm lên mấy vần thơ thâm niệm:
Nghiêm-Thẩm! Nghiêm-Thẩm!
Anh là đỉnh cao của hoa gấm Giang-Sơn,
Anh ra đi mang nặng những oán-hờn.
Có khôn thiêng, xin hãy về chứng-giám
Vạn lòng thành, vạn niềm tin tưởng niệm
Của anh em trí-thức dưới trời Nam.
Nguyện làm gió quét sạch lũ sài-lang,
Nguyện làm mưa cho quê-hương mát-mẻ,
Nguyện làm nắng cho rực màu đất Mẹ,
Nguyện làm trăng gieo rắc ánh thanh-bình.
-------
Đôi nét về Linh mục Phêrô Vũ Đình Trác
Linh Mục
Phêrô Vũ Đình Trác là một người đa tài - bút hiệu là Hán Chương, giáo sư tiến
sĩ triết học Đông phương tại nhiều trường trung học và đại học trước năm 1975,
đông y sĩ, nhạc sĩ thánh ca, tác giả của ca khúc hợp xướng nổi tiếng «Tình Chúa Yêu Tôi» - đã qua đời bình yên
tại tư gia trong đêm 29 rạng 30 Tháng Chín, năm 2003, thọ 77 tuổi.
Linh mục Vũ
Đình Trác cũng là nguyên chủ tịch Liên Đoàn Công Giáo VN tại Hoa Kỳ và chủ tịch
Cộng Đồng Giáo sĩ và Tu Sĩ Việt Nam tại Hoa Kỳ. Linh mục đã chứng tỏ có một
nhãn quan độc đáo với một viễn kiến rất bao dung về tương lai dân tộc Việt Nam,
vượt trên mọi tranh chấp đương thời.
Thụ phong
linh mục năm 26 tuổi tại Vương Cung Thánh Đường Saigon ngay trong năm đầu tiên
sau khi chạy cộng sản từ Bắc vào Nam, Lm. Trác đã phụ trách rất nhiều công
việc, từ tôn giáo tới xã hội, từ văn hóa tới chính trị...
Năm 1956,
Ngài làm chủ nhiệm Tuần Báo Đường Sống, viết về các vấn đề của người tỵ nạn
miền Bắc vào Nam lánh nạn cộng sản.
Ngài từng ủng
hộ chính quyền của nguyên Tổng Thống Ngô Đình Diệm, nhưng ngài cũng đã thẳng
thắn thừa nhận sự kiện vị lãnh đạo miền Nam đang mất uy tín với dân chúng qua
bài viết kêu gọi mọi người «hãy cầu
nguyện cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm lấy lại được uy tín» với quốc dân. Chính
vì bài viết này, ngài đã bị đưa ra tòa với tội chống chính quyền và bị kêu án
18 tháng tù. Theo chính Lm. Trác tiết lộ, diễn tiến này xảy ra dưới sự điều
động của bà Ngô Đình Nhu, em dâu tổng thống, trong lúc Tổng Thống Diệm công du
Hoa Kỳ. Hay biết được chuyện này, Tổng Thống Diệm đã đích thân can thiệp, ân xá
và xóa án cho ngài.
Là một học
giả cực kỳ uyên bác, ngài tinh thông nhiều ngoại ngữ, như tiếng Hoa, tiếng
Nhật, Anh, Pháp, La Tinh... Lm. Trác đậu Cử Nhân Văn Chương Việt Hán tại Đại
Học Sài Gòn, đậu Tiến Sĩ Triết Học Đông Phương tại Đại Học Fujen, Đài Loan với
luận án «Triết Lý Chấp Sinh Nguyễn Công
Trứ», Tiến Sĩ Triết Học Đông Phương tại Đại Học Sophia, Nhật Bản, với luận
án «Triết Lý Nhân Bản Nguyễn Du». Luận
án sau này đã được dịch ra Anh ngữ, và xuất hiện tại nhiều thư viện của Hoa Kỳ.
Ngoài các
luận án kể trên, Lm. Trác còn là tác giả nhiều công trình nghiên cứu văn học, y
học và triết học, như «Việt Nam trong quĩ
đạo thế giới» (xuất bản 1985 tại Hoa Kỳ), «Công Giáo Việt Nam trong truyền thống văn hóa dân tộc» (xuất bản
1996 tại Hoa Kỳ), «Một trăm cây thuốc vạn
linh», các sách giáo khoa Anh ngữ, Pháp ngữ...
Đặc biệt, hai
lần là nạn nhân của chế độ cộng sản, lần thứ nhất ở miền Bắc trước năm 1954, và
lần thứ hai tại miền Nam sau năm 1975 cho mãi tới năm 1980, ngài đã chứng kiến
nhiều trang sử đau khổ của đất nước dưới chế độ cộng sản. Với tự truyện «Rồng Xanh Ngục Đỏ», Lm. Trác đã vạch
trần nhiều sự thật đắng cay của đất nước trong những năm đầu cộng sản mới chiếm
miền Nam.
(Theo VietCatholic News ngày 2 tháng 10, 2003)
No comments:
Post a Comment