50
năm Hiệp định
https://www.voatiengviet.com/a/nam-muoi-nam-hiep-dinh-paris-chien-tranh-viet-nam/6934715.html
Hoàng Long /VOA
Ảnh chụp các đại diện của Bắc Việt Nam, trong đó Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (thứ ba từ phải) đang kí thỏa thuận ngừng bắn để chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, tại Paris, Pháp, ngày 27 tháng 1 năm 1973. Photo: AFP
Năm mươi năm trước, Chiến tranh Việt Nam đạt tới một
bước ngoặt lịch sử vào ngày 27 tháng 1 năm 1973 khi bốn bên gồm Mỹ, Việt Nam
Cộng Hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (Bắc Việt Nam), Cộng hòa miền Nam Việt Nam
(Việt Cộng) kí kết Hiệp định Paris với mục đích chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa
bình tại Việt Nam.
Theo các điều khoản, Mỹ đồng ý đình chỉ ngay lập tức
mọi hoạt động quân sự và rút toàn bộ quân nhân còn lại trong vòng 60 ngày. Bắc
Việt
Sự kiện này được chính quyền cộng sản của Việt Nam mô
tả là một “chiến thắng vĩ đại” về ngoại giao mở ra cục diện mới tiến tới thống
nhất hoàn toàn đất nước vào năm 1975. Nhưng các học giả nghiên cứu Chiến tranh
Việt
VOA trò chuyện với Pierre Asselin, Giáo sư Lịch sử tại
Đại học San Diego State ở Mỹ, người từng viết một cuốn sách về tiến trình dẫn
tới Hiệp định Paris, để làm sáng tỏ một số vấn đề lịch sử. Nội dung cuộc phỏng
vấn đã được biên tập lại cho rõ ràng và dễ theo dõi.
Nhìn lại Hiệp định
Tôi nghĩ nó là một sự kiện cực kì quan trọng trong
lịch sử Chiến tranh Việt
Nhưng đồng thời tôi không nghĩ chúng ta nên phóng đại
tầm quan trọng của nó bởi vì đối với chính người Việt Nam, hiệp định này không
thay đổi gì mấy theo nghĩa là mặc dù người Mỹ đã rời đi, cuộc nội chiến ở Việt
Nam bắt đầu vào năm 1945 vẫn chưa kết thúc. Đó là một trong những lý do tại sao
Hiệp định
Pierre Asselin là Giáo sư Lịch sử tại Đại học
Xin ông cho biết bối cảnh lịch sử xung quanh hiệp định
này. Các cuộc đàm phán hòa bình đã khởi sự kể từ năm 1968 nhưng sau đó lâm vào
bế tắc. Sự đột phá xảy ra khi nào và điều gì dẫn tới sự đột phá đó?
Hiệp định
Vào đầu cuộc chiến, cả hai bên đều tự tin vào khả năng
của mình chiến thắng kẻ thù. Nhưng rồi đến năm 1968-1969, cả Hà Nội và
Nhưng đối với tôi, đây không phải là một thỏa thuận
cho thấy chiến thắng của bên này hay bên kia. Thỏa thuận này là sản phẩm của
hoàn cảnh và cụ thể đó là sản phẩm của sự mệt mỏi vì chiến tranh của cả
Hà Nội thua to trong cuộc tiến công mùa xuân, nhưng Mỹ
và Việt Nam Cộng Hòa cũng chịu nhiều tổn thất. Đối với phía Mỹ, nó rất tổn hại
về mặt chính trị vì nó dẫn đến việc tái tục ném bom miền Bắc Việt
Những cuộc đàm phán bí mật đó đóng vai trò lớn tới mức
nào trong việc mở đường cho Hiệp định
Có hai đợt đàm phán hòa bình diễn ra sau năm 1968. Đợt
đầu tiên là cuộc đàm phán bán công khai. Ban đầu là giữa Mỹ và Bắc Việt Nam và
sau đó là giữa Mỹ, Bắc Việt Nam, Việt Nam Cộng Hòa và Mặt trận Dân tộc Giải
phóng miền Nam Việt Nam, tức Việt Cộng. Nhưng bởi vì những cuộc đàm phán đó
công khai nên chúng chủ yếu nhằm mục đích tuyên truyền và không bao giờ thực sự
đạt được bất cứ điều gì. Và đây là điều mà cả Hà Nội và
Vì vậy vào năm 1969, khi [Cố vấn An ninh Quốc gia Hoa
Kỳ Henry] Kissinger tiếp cận Hà Nội về việc mở một kênh bí mật để đôi bên dễ
dàng trình bày thẳng thắn quan điểm của mình về triển vọng kết thúc chiến tranh
thì lúc đó Hà Nội mới cởi mở hơn. Thực sự nhờ kênh liên lạc bí mật này, chỉ trở
thành riêng tư vào năm 72, mà tất cả những phần cho phép thỏa thuận được hoàn
tất mới được sắp xếp ổn thỏa. Kênh đàm phán bí mật và riêng tư góp phần chung
quyết Hiệp định
Cố vấn An ninh Quốc gia Mỹ Henry Kissinger (thứ ba từ trái), và cố vấn đặc biệt của phái đoàn Bắc Việt Nam Lê Đức Thọ (vẫy tay), được nhìn thấy sau cuộc họp cuối cùng của họ tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở Paris, ngày 23 tháng 1 năm 1973.
Về câu hỏi thứ hai, tại sao họ gạt Việt Nam Cộng Hòa
ra? Tôi nghĩ người Mỹ từ lâu hiểu rằng Sài Gòn sẽ không bao giờ chấp nhận một
giải pháp ngoại giao trừ phi nó giải quyết được tương lai chính trị của miền
Nam Việt
Và tôi nghĩ việc này cho thấy rất nhiều điều về chính
quyền Sài Gòn là một chính quyền như thế nào. Đối với tôi, việc loại bỏ Sài Gòn
là bằng chứng rõ ràng nhất mà chúng ta có cho thấy rằng chế độ của Tổng thống
[Nguyễn Văn] Thiệu không phải là một chế độ bù nhìn. Đó là một chế độ rất độc
lập. Đó là một chế độ có tính chính danh. Nền cộng hòa ở miền Nam, mà Hà Nội
vẫn luôn mô tả là một chế độ bù nhìn và nhiều người Mỹ cũng cho là vậy, luôn là
một thực thể chính trị có tính chính danh. Và người Mỹ nhận ra rằng nếu họ cho
phép Sài Gòn tham gia đàm phán hòa bình thì Sài Gòn sẽ khẳng định quyền tự chủ
của mình. Họ sẽ khẳng định chủ quyền của mình và thậm chí từ chối đàm phán với
miền Bắc.
Vì vậy, để đơn giản hóa, và phần lớn vì những lý do vị
kỉ, Mỹ đã chọn loại Sài Gòn ra khỏi tiến trình này và sau đó chỉ chia sẻ với
Sài Gòn nội dung của các cuộc đàm phán bí mật sau khi một thỏa thuận đã được
chung quyết. Ông Thiệu vì những lý do rất chính đáng đã bác bỏ hoàn toàn thỏa
thuận này.
Ông có cho là Mỹ về cơ bản đã phản bội đồng minh của
mình trong cuộc chiến bằng việc tiến hành các cuộc đàm phán này với Hà Nội
không, biết rõ là họ đang làm suy yếu đồng minh của mình trên bàn đàm phán công
khai?
Đây là một câu hỏi thú vị và quan trọng. Tôi nghĩ
chúng ta phải cẩn thận ở đây. Tôi nghĩ khi nhìn lại, Chiến tranh Việt
Nếu bạn là tổng thống Mỹ, lo cho phần còn lại của thế
giới là một chuyện, nhưng về cơ bản người dân của bạn mới chính là những người
bạn phải chiều lòng. Nếu không thì uy tín của cá nhân bạn, của đảng chính trị
của bạn sẽ tan tành. Vì vậy, tôi nghĩ khi bạn nhìn vào những gì Nixon đã làm
chẳng hạn, và Lyndon Johnson trước đó nữa, dù bạn có cảm thấy thế nào về cuộc
chiến thì thực tế là hai người họ đã đầu tư đáng kể vào việc cố gắng bảo vệ
Việt Nam Cộng Hòa và rồi cho Việt Nam Cộng Hòa một cơ hội công bằng. Và tất
nhiên điều đó không thể tiếp tục mãi mãi. Và vì vậy về phía Mỹ, việc Nixon đi
sau lưng Sài Gòn và thương lượng thỏa thuận này mà không tham vấn Việt Nam Cộng
Hòa, có thể nói đó là một sự phản bội ở một mức độ nào đó.
Điều rất thú vị là ở chỗ này. Mặc dù Mỹ bí mật tổ chức
các cuộc đàm phán này với Bắc Việt
Tổng thống Richard Nixon và Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trong một cuộc hội kiến tại San Clemente, California, ngày 2 tháng 4 năm 1973.
Tôi nghĩ ông Thiệu hiểu hết tất cả những điều này.
Nixon làm những gì ông ấy phải làm cho chính mình và cho đất nước của mình,
giống như ông Thiệu làm những gì ông ấy phải làm cho chính mình và cho Việt Nam
Cộng Hòa. Gọi đó là sự phản bội thì dễ đấy, nhưng đồng thời tôi nghĩ mọi người
đều nhận ra rằng trong chiến tranh, hay trong những hoàn cảnh khác, các chính
phủ sẽ hành động dựa trên lợi ích vị kỉ của chính họ.
Năm mươi năm sau nhìn lại, ông có cho rằng Hiệp định
Tôi không biết nó có định đoạt số phận hay không. Vào
thời điểm Hiệp định
Trong cuộc tiến công mùa xuân năm 1972, có hai điều
khiến cho nó thất bại. Một mặt, không nghi ngờ gì là quân đội Việt Nam Cộng Hòa
đã chiến đấu rất tốt. Lúc đầu có gặp khó khăn nhưng sau đó quân đội Việt Nam
Cộng Hòa đã chiến đấu rất, rất tốt. Nhưng mặt khác là Mỹ ném bom miền Bắc Việt
Và rồi đối với Bắc Việt
Đầu cuộc nói chuyện ông có nói rằng Hiệp định
Tôi đã viết một cuốn sách này về thỏa thuận mà tôi đặt
tựa đề là “Hòa bình Cay đắng.” Tôi nêu luận điểm rằng về cơ bản Hiệp định
Binh sĩ Mỹ lên máy bay phản lực dưới sự giám sát của các quan sát viên Bắc Việt Nam và Việt Cộng tại Sài Gòn, ngày 29 tháng 3 năm 1973. Phía cộng sản đếm từng binh sĩ lên máy bay vận tải trong khi các binh sĩ phớt lờ họ.
Hà Nội tôn trọng các điều khoản của thỏa thuận, nhưng
chỉ cho đến khi người Mỹ rời đi. Và rồi họ lại bắt đầu vi phạm bằng cách tuồn
các loại vũ khí mới vào miền
Vì vậy, rõ ràng là họ sẽ không bao giờ chấp nhận hiện
trạng. Nếu không vi phạm năm 73 thì sẽ vi phạm năm 74 và 75. Không có cách nào
mà một tình huống kiểu bán đảo Triều Tiên sẽ tồn tại được ở Việt
Ông có nghĩ là việc Lê Đức Thọ từ chối nhận Giải Nobel
Hòa bình là một sự khôn ngoan vì có lẽ khi đó ông ta biết cuộc chiến này sẽ
không kết thúc cho tới năm 1975, hay một thời điểm sau đó? Rằng họ sẽ tiếp tục
chiến đấu cho tới khi họ có thể thống nhất đất nước?
Theo tôi, đó là kiểu tuyên truyền tiêu chuẩn của cộng
sản Việt
Lê Đức Thọ phát biểu trong cuộc họp báo tại Trung tâm Hội nghị Quốc tế Paris, ở Paris, Pháp, ngày 13 tháng 6 năm 1973.
Hiệp định Genève là một thất bại lớn và điều đó đã
không mang lại lợi ích gì cho những người cộng sản. Vì thế đó là lý do tại sao
họ không bao giờ muốn có một thỏa thuận ngay từ đầu trong cuộc chiến chống Mỹ.
Khi họ kí thỏa thuận vào năm 73, đó chỉ là vì họ đang khốn đốn. Nhưng chẳng có
gì trong những tài liệu lưu trữ cho thấy họ thực sự có ý định tuân thủ. Họ sẽ
phá vỡ thỏa thuận bởi vì mục tiêu của họ vẫn không thay đổi. Họ sẽ thống nhất
Việt
Việc Lê Đức Thọ khước từ Giải Nobel Hòa bình chỉ là
nhằm đánh bóng hình ảnh của những người cộng sản, làm cho họ trông giống như
những người yêu chuộng hòa bình trong khi thực tế những người cộng sản là những
người duy nhất có một mục tiêu rất rõ ràng và không bao giờ đi chệch mục tiêu
của mình. Và đó là lý do tại sao họ sẵn sàng làm bất cứ điều gì để đạt được
điều đó kể cả hi sinh hàng trăm ngàn binh lính của chính họ.
Và họ đã chiến thắng vì điều đó. Và họ cũng thực sự tổ
chức tốt nữa. Nhưng họ cũng biết cách lèo lái dư luận thế giới, họ là những
người thao túng dư luận thế giới một cách lão luyện, và đó là điều mà Mỹ và
Việt Nam Cộng Hòa không bao giờ làm được. Họ không bao giờ có thể trình bày một
cách thuyết phục về cuộc chiến của mình như cách mà Hà Nội có thể làm về cuộc
chiến của họ. Và vì thế, việc khước từ Giải Nobel Hòa bình theo tôi là một phần
trong chiến lược ngoại giao lớn hơn nhằm làm cho những người cộng sản trông như
những người theo chủ nghĩa dân tộc, khiến họ trông như những người có chính
nghĩa, trong khi thực tế họ chỉ là một đảng được dẫn dắt bởi ý thức hệ.
Xin cảm ơn ông về cuộc trò chuyện này.
No comments:
Post a Comment