Khui
hồ sơ «Tối Mật»: Mỹ chủ mưu thanh
toán anh em Tổng Thống Ngô Đình Diệm
Ngô Kỷ tổng hợp và chuyển ngữ
Đảo chánh! đảo chánh!! !
Ngày 01 tháng 11 năm 1963, 44 năm qua, có thể chuyện đã trở thành cũ so
với một đời người, nhưng lại quá mới nếu đem so với chiều dài của lịch sử. Từ
trước đến nay, có rất nhiều cựu tướng lãnh, chính trị gia Việt Nam lẫn Mỹ viết
những cuốn hồi ký nói về ngày đảo chánh, nhưng hầu hết đều có tính cách chủ
quan và mang màu sắc đánh bóng, chạy tội.
Vì viết về «cái tôi» nên các
chi tiết họ đưa ra chứa đầy thiên kiến, ích kỷ và cố tạo thành một «diễn đàn» để nhục mạ đối tượng nhằm thỏa
mãn tự ái và trốn chạy mặc cảm tội lỗi. Vì không đồng ý với lề lối viết đó, nên
chúng tôi cố gắng sưu tầm và trích dịch một số dữ kiện có tính cách khả tín vì
được trình bày trùng hợp với nhau từ hơn chục quyển sách ngoại quốc. Các chi
tiết này được thâu thập từ văn khố chính phủ, từ các cuộc phỏng vấn trực tiếp, từ
các bản tự thú hữu thệ và từ các buổi điều trần tại Quốc Hội Hoa Kỳ v.v…
Trong tập tài liệu này, có đề cập đến những chữ như «chính phủ Diệm», «Tổng Thống Diệm», điều đó không nhất thiết Tổng Thống Diệm là người
đích thân hay trực tiếp ra lệnh, sắp xếp, thông tường tất cả mọi sự kiện, vấn
đề đang xảy ra trong nước. Nhưng vì với chức vụ Tổng Thống, nên Tổng Thống Diệm
phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về mọi hành động, lời nói của thuộc cấp, luôn
cả của ông bà Cố Vấn Ngô Đình Nhu, ông Ngô Đình Cẩn v.v…
Vì đề tài quá rộng lớn và vô cùng phức tạp, vì chúng tôi không phải là
sử gia, do đó các chi tiết trong tập tài liệu chỉ có tính cách tóm lược mà thôi.
Vì tôn trọng sự trung thực của vấn đề, chúng tôi cố gắng giữ vai trò thật khách
quan trong khi dịch thuật, mà không suy diễn, không phân tích, không ca ngợi, không
chỉ trích, không vu cáo, không bênh vực, không lên án, không bào chữa…
Chúng tôi chỉ ước ao những người từng chủ trương, tham dự cuộc đảo chánh
năm 1963 nhân danh vì đạo pháp, vì tự do, vì dân chủ, vì nhân quyền, vì hạnh
phúc, vì độc lập dân tộc, thì cũng xin đừng quên rằng hiện nay nơi quê nhà, Cộng
Sản Việt Nam là một tập đoàn «đảng trị»,
đang kỳ thị, đàn áp, bắt bớ, giam cầm các lãnh tụ tôn giáo, đang đóng cửa, tịch
thu các chùa chiền, nhà thờ, thánh thất, đang thủ tiêu, giết chóc các nhà chính
trị đối lập, đang liếm gót giày Nga, Tàu, «đế
quốc Mỹ», và đang vi phạm gấp hàng triệu lần những gì mà quý vị đã từng hô
hào xuống đường, tranh đấu.
Nếu quý độc giả cần thêm tài liệu, hình ảnh, hay nguyên bản, xin liên
lạc về:
Ngô Kỷ, P. O. Box 836 ,
Garden Grove , Ca 92842.
Email: ngokyusa@yahoo. com
Tiểu sử và sự nghiệp tổng thống Ngô Đình Diệm
Ông Ngô Đình Diệm sinh ngày 03 tháng 01 năm 1901 trong một gia đình có 9
người con. Thân phụ là ông Ngô Đình Khả từng phục vụ dưới triều vua Thành Thái.
Ông Diệm thuộc gia đình Công Giáo và từng có ý muốn lớn lên làm linh mục. Học
trường Quốc Học Huế và tốt nghiệp lúc 16 tuổi. Sau đó ghi danh học trường Luật
và Quản Trị của Pháp ở Hà Nội, tỏ ra là một sinh viên thông minh, xuất sắc và
ra trường đứng đầu lớp. Tốt nghiệp, ông Diệm đi làm việc ngay cho chính phủ.
Ông tiến thân rất mau trên con đường công danh. Lần lượt ông được bổ
nhậm vào các chức vụ: Quan Hậu Bổ, Tri Huyện tỉnh Thừa Thiên, Tri Phủ tỉnh
Quảng Trị, Quản Đạo Ninh Thuận tỉnh Phan Rang và Tuần Vũ Bình Thuận tỉnh Phan
Thiết.
Là người Việt Nam
ái quốc, ông Diệm chống đối sự đô hộ của Pháp và lên án chủ nghĩa Cộng Sản, mà
theo ông đó là kẻ thù của người Việt Quốc Gia. Vì thấy ông Diệm có khả năng và
năng động, nên vào ngày 02 tháng 03 năm 1933, Vua Bảo Đại bổ nhiệm ông Diệm nắm
chức vụ Thượng Thư Bộ Lại đứng đầu nội các (tương đương với Bộ Nội Vụ).
Ông Diệm rất thích thú với công việc mới này, ông đưa ra một số biện
pháp và chương trình cải tổ guồng máy cai trị, nhưng bị Vua Bảo Đại và Pháp từ
chối. Thất vọng và bất mãn, ông từ chức và không giữ chức vụ gì sau đó nữa cho
đến khi ông làm Thủ Tướng vào năm 1954.
Ông Diệm sống tại nhà của thân sinh gần Huế. Ông từ chối mọi sự mời mọc
của Nhật, Việt Minh, Bảo Đại và không tham gia vào bất cứ chính quyền nào lập
sau Đệ Nhị Thế Chiến. Có một lần ông bị Việt Minh bắt và giải đến Hồ Chí Minh. Hồ
Chí Minh mời ông tham gia chính phủ nhưng ông từ chối với lý do Việt Minh giết
anh cả của ông.
Năm 1949, Pháp lập lên chính phủ Bảo Đại, ông Diệm yêu cầu Vua Bảo Đại
đòi Pháp nới rộng tự do cho đất nước, nhưng bị từ chối nên ông Diệm rất thất
vọng.
Năm 1951, ông Diệm qua Mỹ và sống 2 năm tại Lakehurst , New Jersey .
Ông đi vòng quanh nước Mỹ để vận động độc lập cho Việt Nam . Ông Diệm
nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của Đức Hồng Y Francis Cardinal Spellman, Phát ngôn
viên của Công Giáo Hoa Kỳ, Đức Hồng Y Richard Cardinal Cushing, Linh Mục
Raymond J. de Jaegher, Thượng Nghị Sĩ William F. Knowland, Thượng Nghị Sĩ John
Kennedy, Thượng Nghị Sĩ Mike Mansfield, Dân Biểu Walter Judd và Chánh Án Tối
Cao Pháp Viện Hoa Kỳ William O. Douglas.
Vào năm 1954, khi có triệu chứng Pháp thua tại Đông Dương và Cộng Sản có
cơ hội chiếm Việt Nam , Hoa
Kỳ quyết định can thiệp để thay thế Pháp và cố bảo vệ miền Nam Việt Nam . Chính phủ
Mỹ muốn tìm người để ủng hộ. Lúc đó Ngoại Trưởng Mỹ John Foster Dulles biết
được ông Diệm. Với tài quản trị, ái quốc, và chống Cộng triệt để, ông Diệm lấy
được cảm tình của nhân dân Mỹ.
Vua Bảo Đại cử ông Diệm làm Thủ Tướng. Về nước ngày 25 tháng 06 năm 1954,
ông Diệm lấy làm lo lắng và xót xa khi thấy quốc gia đang bị băng hoại, tham ô,
và quan lại. Ông phải phấn đấu và giữ sáng suốt để đương đầu trước một hoàn
cảnh đầy khó khăn, phức tạp và tế nhị khi hai cường quốc Pháp và Mỹ đang tranh
giành xâu xé ảnh hưởng tại Việt Nam .
Vào ngày 01 tháng 10 năm 1954, Tổng Thống Mỹ Eisenhower viết cho ông
Diệm một lá thư và được Đặc Sứ Mỹ Donald R. Heath trao vào ngày 23 tháng 10 năm
1954 với nội dung Mỹ cam kết ủng hộ kinh tế và quân sự cho chính phủ Ngô Đình
Diệm.
Những nhân vật Mỹ chính yếu đứng sau lưng ông Diệm thời đó là Giám Đốc
Cơ Quan Trung Ương Tình Báo (CIA) Đại Tá Không Quân Edward G. Landsdale và
Tướng J. Lawton «Lightning Joe»
Collins, Đặc Sứ của Tổng Thống Eisenhower đặc trách miền Nam Việt Nam.
Ngày 23 tháng 10 năm 1955, ông Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý. Ông
Diệm đạt 98. 2% phiếu thắng Vua Bảo Đại, và ông Ngô Đình Diệm trở thành Tổng
Thống đầu tiên của miền Nam Việt Nam.
Trong 9 năm thăng trầm của lịch sử, có những lúc Tổng Thống Diệm phải
đương đầu với ý muốn bành trướng quân đội Mỹ tại Việt Nam . Vì muốn có
chủ quyền và khỏi mất chính nghĩa, nên Tổng Thống Diệm mạnh mẽ chống lại việc
đưa lính «tác chiến» Mỹ vào Việt Nam,
ông chỉ nhận viện trợ và cho phép Cố Vấn Mỹ vào Việt Nam mà thôi, sự kiện này
đã sinh ra bất đồng giữa hai chính phủ.
Sau những chua cay ngọt bùi, khó khăn, nguy hiểm, vinh nhục trong chức
vụ Tổng Thống, sự nghiệp và sinh mạng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã kết thúc
vào năm 1963, mà bắt nguồn từ biến cố Phật Giáo ngày 08 tháng 05 năm 1963 tại
Huế.
Diễn biến đưa đến đảo chánh
Ngày 05 tháng 05 năm 1963, thành phố cổ kính Huế treo đầy cờ và khẩu
hiệu để mừng Đức Giám Mục Ngô Đình Thục, bào huynh của Tổng Thống Diệm. Trong
số cờ đó có cờ của Giáo Hội Công Giáo Vatican
tức cờ nửa vàng nửa trắng và hình Đức Giáo Hoàng. Biểu tượng này được nhìn như
là Tòa Thánh Vatican công nhận miền Nam
và đạo Công Giáo tại Việt Nam ,
xóa đi hình ảnh đô hộ của Pháp Quốc lâu nay.
Ngày 08 tháng 05 năm 1963, Phật tử tại Huế treo cờ Phật Giáo để mừng Đại
Lễ Phật Đản thứ 2. 507, nhưng chính quyền không cho phép. Vì tức giận, tối đó
một số Phật tử kéo đến biểu tình tại đài phát thanh để phản đối chính quyền. Trong
khi xô xát, một quả bom nhỏ hay một trái lựu đạn phát nổ, tình hình hổn loạn. Kết
quả có 9 người chết, trong đó có một trẻ em, và 20 người khác bị thương.
Chính quyền quy kết Cộng Sản trà trộn đặt chất nổ giết người để gây xáo
trộn. Phía biểu tình kết án Thiếu Tá Đặng Sỹ ra lệnh nổ súng giết người biểu
tình. Theo lời kể của ông Lãnh Sự Mỹ tại Huế: «Lính chính quyền hốt hoảng vì tiếng nổ và la hét của đám biểu tình nên
xả súng bắn vào đám biểu tình». Ông John Mecklin, Phát ngôn viên tòa Đại Sứ
tuyên bố: «Cấm treo cờ Phật Giáo trong
ngày Phật Đản không khác chi đi cấm người Mỹ hát nhạc mừng trong ngày Chúa
Giáng Sinh». Cũng có tin cho rằng chính phủ Tổng Thống Diệm không cho phép
treo cờ Phật Giáo lớn hơn và ngang hàng với cờ Quốc Gia Việt Nam vì đó là theo
luật lệ của chính phủ đã có từ lâu, chứ không phải là cấm treo cờ Phật Giáo.
Vào thời điểm này, Phật giáo có khoảng 10. 5 triệu người, và Công Giáo
có khoảng 1. 5 triệu người.
Hôm sau, ngày 09 tháng 05 năm 1963, hơn 10 ngàn người kéo đến nhà Tỉnh
Trưởng Huế biểu tình và đòi hỏi 5 điểm:
1. Hủy bỏ lệnh cấm treo cờ Phật Giáo.
2. Phật Giáo được quyền bình đẳng như Công Giáo.
3. Không được đàn áp Phật Giáo.
4. Phật Giáo được quyền thờ phượng tôn giáo của mình.
5. Chính quyền phải bồi thường cho các gia đình nạn nhân, và phải trừng
trị các người có trách nhiệm trong vụ bắn chết người trong ngày 08 tháng 05 năm
1963.
Ngày 15 tháng 05 năm 1963, phái đoàn Phật Giáo gồm 8 người từ Huế vào
Sài Gòn trình kiến nghị cho Tổng Thống Diệm. Tổng Thống Diệm đồng ý hầu hết các
yêu sách, và hứa sẽ điều tra. Tuy nhiên Tổng Thống Diệm không chịu bồi thường
cho các gia đình nạn nhân vì sợ Phật Giáo làm tới. Nhưng tuần sau Tổng Thống
Diệm đổi ý, không chịu nhượng bộ Phật Giáo, sự kiện này làm Phật Giáo bất mãn.
Ngày 28 tháng 05 năm 1963, Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết, Lãnh Đạo Phật
Giáo Việt Nam lên tiếng kêu gọi biểu tình. Tại Huế, hàng ngàn tăng ni xuống
đường.
Tại Sài Gòn hàng trăm tăng ni biểu tình và tuyệt thực 48 giờ trước Quốc
Hội. Đại Sứ Mỹ Frederick E. Nolting vắng mặt tại
Sài Gòn, Bộ Ngoại Giao Mỹ Mỹ chỉ thị ông Phó Đại Sứ William C. Trueheart (Deputy
Chief of Mission )
giải quyết.
Ngày 02 tháng 06 năm 1963, tại Huế, 500 sinh viên biểu tình chống chính
quyền kỳ thị. Biến thành bạo động, cảnh sát dùng chó, lựu đạn cay tấn công đoàn
biểu tình, 67 sinh viên bị thương phải vào bệnh viện. Chính quyền ra lệnh giới
nghiêm Huế và cho cảnh sát, công an kiểm soát đường phố.
Để tránh đụng chạm, Tổng Thống Diệm thải hồi 3 viên chức có trách nhiệm
vụ bắn chết người biểu tình ngày 08 tháng 05 năm 1963, trong đó bị thải hồi có
Thiếu Tá Đặng Sỹ. Chính quyền lên tiếng xin lỗi Phật Giáo, nói là các nhân viên
chính quyền đã thiếu tế nhị khi hành xữ công tác và hứa sẽ cho một phái đoàn
chính phủ tiếp xúc với Phật Giáo để bồi thường các gia đình nạn nhân.
Ngày 04 tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart gặp Ông Nguyễn Đình
Thuần, Bộ Trưởng Phủ Tổng Thống để yêu cầu giải quyết. Phật Giáo có gặp nhưng
hai bên bất đồng ý kiến.
Ngày 07 tháng 06 năm 1963, bà Ngô Đình Nhu tức bà Trần Lệ Xuân ca ngợi
tổ chức Phụ Nữ Liên Đới và lên án những vị lãnh tụ Phật Giáo do Cộng Sản giật
dây.
Sáng ngày 11 tháng 06 năm 1963, Phát ngôn viên của Phật Giáo thông báo
cho các phóng viên, ký giả Mỹ biết sẽ có một biến cố quan trọng sẽ xảy ra tại
ngã tư Lê Văn Duyệt và Phan Đình Phùng thành phố Sài Gòn. Hàng ngàn tăng ni, phật
tử đứng chung quanh, HòaThượng Thích Quảng Đức 73 tuổi ngồi bình thản tự thiêu
bằng xăng. Chính quyền tuyên truyền rằng Hòa Thượng Thích Quảng Đức ngồi bình
tỉnh là do bị chích ma túy nên không biết nóng.
Bà Ngô Đình Nhu tuyên bố về cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức: «Tất cả cái mà các vị lãnh đạo Phật Giáo đóng
góp vào quốc gia này là đi nướng một vị tăng (barbecue) ». Chính quyền Tổng
Thống Diệm cho rằng việc tự thiêu là do Cộng Sản sắp đặt, và chính Đại Sứ Mỹ
Nolting cũng ủng hộ lời giải thích này, ông nói: «Theo tôi nghĩ, đây là do Việt Cộng. Động lực thúc đẩy việc này là do
chính trị chứ không phải do vấn đề tín ngưỡng».
Cái chết của Hòa Thượng Thích Quảng Đức là ngọn lửa châm ngòi cho Phật
Giáo đấu tranh kịch liệt và mạnh mẽ hơn. Hình ảnh tự thiêu đã gây xúc động nhân
dân, chính phủ Mỹ và toàn thế giới. Chính phủ Mỹ lên án Tổng Thống Diệm. Bộ
Ngoại Giao Mỹ chỉ thị Phó Đại Sứ Trueheart bí mật tiếp xúc với Phó Tổng Thống
Nguyễn Ngọc Thơ để báo tin cho biết là Mỹ sẽ ủng hộ Phó Tổng Thống Thơ nếu Tổng
Thống Diệm ra đi.
Vì thấy Đại Sứ Mỹ Nolting quá thân với Tổng Thống Diệm, nên Tổng Thống
Kennedy tuyên bố thay thế Đại Sứ Nolting bằng tân Đại Sứ Henry Cabot Lodge
trong khi Đại Sứ Nolting đang đi Âu Châu mà không thông báo cho ông biết.
Đại Sứ Nolting chỉ được biết qua đài phát thanh mà thôi. Tức bực, Đại Sứ
Nolting phát biểu: «Tôi nói thẳng là tôi
nghĩ có một số người có thế lực tại Bộ Ngoại Giao, họ là những người rất vui
mừng khi thấy tôi phải ra đi bởi vì họ muốn cho ông Diệm thật nhiều sợi dây
thừng để ông tự treo cổ ông ta. Có một chiến dịch đạp đổ ông Diệm làm tôi nghĩ
rằng nó phát xuất từ các ông Thứ Trưởng Averrell Harriman, Roger Hilsman và một
số viên chức trong Tòa Bạch Ốc. Điều đó đi ngược lại sự cố vấn của CIA. Tôi
muốn các điều tôi nói đây được ghi vào hồ sơ».
Sau này, Tướng Maxwell D. Taylor, từng là Chủ Tịch Liên Quân Hoa Kỳ (Tổng
Tham Mưu Trưởng) thời đó kể lại là Ban Cố Vấn của Tổng Thống Kennedy chia làm 2
phe: một phe thì muốn lật đổ Tổng Thống Diệm vì nói là «không thể thắng Cộng Sản nếu còn Tổng Thống Diệm», còn phía ủng hộ
Tổng Thống Diệm mà trong đó có Tướng Taylor thì nói là «có thể chúng ta không thể thắng Cộng Sản nếu đi với Tổng Thống Diệm, nhưng
nếu không đi với Diệm thì đi với ai? » Mọi người đều im lặng, không ai trả
lời được câu này.
Ngày 16 tháng 06 năm 1963, Ủy Ban Chính Phủ và Phật Giáo ký bản Thông
Cáo Chung, đồng ý thỏa mãn các đòi hỏi của Phật Giáo, nhưng lại không nhận
trách nhiệm. Báo chí Mỹ, đài VOA chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm. Phật
Giáo thay thế Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết bằng Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh
đạo cuộc đấu tranh. Theo báo cáo của CIA, Thượng Tọa Thích Trí Quang là người
Bắc, sinh năm 1922, là «một người khôn
lanh, thâm hiểm, không tình cảm, có mưu đồ chính trị và đầy tham vọng lãnh tụ».
Ngày 25 tháng 06 năm 1963, Trưởng Phòng CIA John Richardson tại Sài Gòn
(CIA Chief Station) thất bại trong việc đứng ra điều đình giữa chính quyền Tổng
Thống Diệm và Phật Giáo. Ông Cố Vấn Nhu nói: «Các lãnh tụ Phật Giáo không bao giờ tuyên bố và cũng không bao giờ
chống Cộng Sản cả». Ông Nhu cũng chỉ trích thái độ mềm dẽo của Tổng Thống
Diệm vì làm như vậy khiến cho chính quyền khó giải quyết vấn đề. Ông Nhu tuyên
bố: «Nếu chính phủ không áp dụng luật
pháp thì chính phủ sẽ sụp đổ và tôi là người đầu tiên nghĩ như thế». Ông
Nhu hàm ý rằng trong tình trạng khẩn trương của đất nước, nếu cần, ông sẽ đứng
ra ngoài tình cảm gia đình, ông có thể chống cả chính phủ và Tổng Thống Diệm.
Khi thấy phong trào đấu tranh của Phật Giáo bùng nổ mạnh mẽ dưới sự chỉ
đạo của Thượng Tọa Thích Trí Quang, Tổng Thống Kennedy hỏi ông Phụ Tá Tổng
Thống Michael Forrestal rằng: «Họ là ai? Tại
sao chúng ta không biết đến họ trước kia vậy? »
Những ngày cuối tháng 06 năm 1963, Phó Đại Sứ Trueheart tiếp xúc Tổng
Thống Diệm hàng ngày để đòi hỏi Tổng Thống Diệm nhượng bộ Phật Giáo. Vì thấy
Tổng Thống Diệm không nghe lời, Phó Đại Sứ Trueheart đe dọa Mỹ sẽ không ủng hộ
chính phủ Tổng Thống Diệm. Bị xúc phạm bởi những lời đe dọa của Mỹ, kể từ đây
Tổng Thống Diệm tỏ ra bất cần Mỹ, và kêu gọi dân chúng thắt lưng buộc bụng để
độc lập với Mỹ.
Ngày 04 tháng 07 năm 1963, tờ báo viết bằng Anh ngữ Times of Viet Nam do
ông Nhu tài trợ viết bài tấn công Mỹ và nói Hòa Thượng Thích Quảng Đức tự thiêu
vì bị chích ma túy.
Tại Hoa Thịnh Đốn, các giới chức cao cấp Bộ Ngoại Giao phúc trình Tổng
Thống Kennedy biết tình trạng bất ổn tại Việt Nam và kết tội ông Nhu phá hoại
bản Thông Cáo Chung ký ngày 16 tháng 06.
Tại Hoa Thịnh Đốn, bàn tán xôn xao về kế hoạch loại ông Cố Vấn Nhu và bà
Nhu ra khỏi chính quyền. Đại Sứ Nolting được gọi họp tại Tòa Bạch Ốc. Tại đây, ông
Nolting khuyến cáo Tổng Thống Kennedy rằng nếu đảo chánh sẽ tạo ra nội chiến, và
ông Nolting hy vọng là ông có thể thuyết phục được Tổng Thống Diệm. Mặc dù Tổng
Thống Kennedy đã tuyên bố bổ nhiệm ông Henry Cabot Lodge thay thế ông Nolting
để làm đại sứ tại Việt Nam, nhưng Tổng Thống Kennedy lại chỉ định ông Nolting
qua Sài Gòn lần nữa để thuyết phục Tổng Thống Diệm.
Ngày 11 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting trở lại Sài Gòn. Tuyên bố với
báo chí, ông nói ông qua lần này nhằm thuyết phục Tổng Thống Diệm thay đổi lập
trường. Ông khuyến khích Tổng Thống Diệm lên đài phát thanh để nhận lỗi về việc
tranh chấp với Phật Giáo.
Ngày 18 tháng 07 năm 1963, Đại Sứ Nolting dành cả ngày thuyết phục, khuyến
khích, yêu cầu và ngay cả đe dọa Tổng Thống Diệm, tuy nhiên không đạt được gì
khả quan cả, trừ việc Tổng Thống Diệm đồng ý lên đài phát thanh để hứa «cộng tác» chặt chẽ với Phật Giáo. Vụ tự
thiêu lần thứ hai xảy ra.
Ngày 19 tháng 07 năm 1963, Tổng Thống Diệm nói trên đài phát thanh chỉ 2
phút. Với giọng nói lạnh lùng, Tổng Thống Diệm hứa hẹn rất ít, yêu cầu mọi
người kính trọng chức vụ Tổng Thống của ông, và hứa sẽ chỉ định một Ủy Ban
Chính Phủ khác điều tra các khiếu nại của Phật Giáo. Dù vậy, cảnh sát vẫn tiếp
tục bao vây các chùa chiền bằng dây kẽm gai.
Ngày 05 tháng 08 năm 1963, tại Phan Thiết, sư Nguyên Hương tự thiêu bằng
xăng.
Ngày 13 tháng 08 năm 1963, một vị sư ở Huế quấn cờ Phật Giáo tự thiêu.
Tại Ninh Hòa, một ni cô ngồi tại nhà thờ Công Giáo tự thiêu.
Ngày sau đó, một vị sư 71 tuổi tự thiêu trong sân chùa Từ Đàm Huế.
Vì phong trào Phật Giáo đấu tranh mạnh tại Huế và Nha Trang, nên chính
quyền Tổng Thống Diệm ban tình trạng thiết quân luật tại hai tỉnh này. Quân đội
xao động, truyền đơn rải cùng các căn cứ lính. Các quân nhân bắt đầu mang khăn
quàng vào tay ủng hộ Phật Giáo đấu tranh.
Ngày 14 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting từ biệt Tổng Thống Diệm về Mỹ.
Ông Nolting yêu cầu Tổng Thống Diệm thỏa hiệp với Phật Giáo và muốn Tổng Thống
Diệm lên tiếng phủ nhận lời tuyên bố «đổ
dầu vào lửa» của bà Nhu, cũng như muốn Tổng Thống Diệm cho biết ai là người
thực sự lãnh đạo đất nước. Nếu Tổng Thống Diệm không thực hiện các điều kể trên
thì «chính phủ Mỹ khó có thể tiếp tục giữ
tình hữu nghị như hiện tại».
Tổng Thống Diệm nói với Đại Sứ Nolting rằng Hoa Kỳ phải nên hiểu rằng
việc rối rắm này «không phải do Phật Giáo
mà cũng chẳng phải do gia đình ông tạo nên». Tuy nhiên, có lẽ vì chỗ thân
tình với ông Nolting nên Tổng Thống Diệm hứa là sẽ đưa ra một bản Thông Cáo. Thế
nhưng, trong buổi phỏng vấn ngày sau đó, Tổng Thống Diệm lại tuyên bố: «Chính sách liên kết với Phật Giáo của tôi
không thể thực hiện được».
Chính phủ Tổng Thống Diệm muốn đánh một ván bài chót là đàn áp Phật Giáo
thật mạnh mẽ, với hy vọng là nếu thành công thì đây là món quà đón tiếp tân Đại
Sứ Henry Cabot Lodge. Mỹ cho đây là kế hoạch của ông Cố Vấn Nhu.
Ngày 15 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Nolting rời Sài Gòn. Ông Nhu cảnh giác
cho các tướng lãnh Việt Nam
biết chính sách Mỹ thay đổi và có thể Mỹ sẽ bỏ rơi Việt Nam . Ông trưng
dẫn bằng chứng là Mỹ vừa ký thỏa hiệp cấm thử bom nguyên tử với Liên Sô, có
nghĩa là Mỹ đi hòa hoãn với Cộng Sản.
Ngày 20 tháng 08 năm 1963, mười vị tướng lãnh yêu cầu Tổng Thống Diệm
ban bố tình trạng thiết quân luật để quân đội có thể đưa các vị tăng ni ngoài
Sài Gòn trở về chùa. Tối đó, ông Nhu tự ý hành động mà không thông báo cho các
tướng lãnh. Tấn công chùa Xá Lợi, phá cửa chính bằng súng, lựu đạn cay, bắt bớ
lên xe. Tại Huế, lực lượng an ninh dùng súng tiểu liên M1 bắn chùa Từ Đàm, bắn
bể tượng Phật và tịch thu 30 ngàn mỹ kim của chùa. Gần chùa Diệu Đế, đàn bà, đàn
ông, trẻ em đương đầu với cảnh sát. Sau năm tiếng đồng hồ xô xát cho đến khi có
xe tăng tới, tại chùa có 30 người chết, 200 bị thương và chở giam 10 xe người.
Ngày 21 tháng 08 năm 1963, sau khi Tổng Thống Diệm ban bố tình trạng
thiết quân luật, ông Nhu ra lệnh Lực Lượng Đặc Biệt (Special Forces) do Đại Tá
Lê Quang Tung cầm đầu, và Cảnh Sát Dã Chiến (Combat Police) tấn công chùa chiền.
Có khoảng 2 ngàn chùa chiền bị bố ráp trên toàn quốc và bắt giam hơn 1. 400 vị
tăng ni. Ít nhất có năm mươi đến hàng trăm người bị chết. Sự kiện này đã làm
cho Mỹ tại Sài Gòn cũng như Hoa Thịnh Đốn bực tức và lên án Tổng Thống Diệm gắt
gao. Tại Honolulu, ông Nolting gặp tân Đại Sứ Lodge và một số giới chức Mỹ. Ông
Nolting gởi cho Tổng Thống Diệm một điện thư: «Đây là lần đầu tiên ông đã nuốt lời hứa với tôi». Hết sức chịu đựng,
và không còn nhẫn nại được nữa, Tổng Thống Kennedy quyết định giao cho CIA giải
quyết vấn đề.
Cũng trong ngày này, 6 giờ sáng, đài phát thanh Sài Gòn phát thanh lời
Tổng Thống Diệm nói rằng 3 tháng thương thảo với Phật Giáo thất bại. Ông tuyên
bố toàn nước đặt trong tình trạng thiết quân luật. Binh sĩ tại Sài Gòn mặc áo
giáp, mang tiểu liên, lựu đạn cay và canh gác khắp các ngã đường, các cây cầu
chính yếu. Xe Jeep trang bị súng lớn 30 caliber tuần tiểu thành phố. Sinh viên
xuống đường biểu tình bất tuân lệnh thiết quân luật.
BộTrưởng Ngoại Giao Vũ Văn Mẫu từ chức, cạo trọc đầu để phản đối Tổng
Thống Diệm và xin đi Ấn Độ tu học. Tệ hại hơn là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại
Hoa Kỳ là ông Trần Văn Chương, thân sinh của bà Trần Lệ Xuân (tức bà Nhu) từ
chức và chỉ trích chính quyền Tổng Thống Diệm là chế độ độc tài. Phái đoàn Mỹ
cứu trợ phải quay trở lại Mỹ vì cảnh sát không cho phép máy bay hạ cánh. Chính
phủ Mỹ bị hiểu lầm là đứng sau vụ đàn áp Phật Giáo.
Ngày 22 tháng 08 năm 1963, lúc 9 giờ 30 tối, tân Đại Sứ Henry Cabot
Lodge đến Tân Sơn Nhất, Sài Gòn.
Ngày 23 tháng 08 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn mời ông CIA Lucien Conein
đến Bộ Tổng Tham Mưu để nhận thư trao tận tay cho tân Đại Sứ Lodge, nói là quân
đội không có nhúng tay trong việc đàn áp Phật Giáo vừa rồi. (Ông Lucien Conein,
CIA Operative, giữ vai trò chính yếu trong việc phối hợp với các tướng đảo
chánh).
Tướng Lê Văn Kim là phụ tá của tướng Đôn và là anh em rể của tướng Đôn
đòi triệt hạ ông Nhu và yêu cầu chính phủ Mỹ lên tiếng ủng hộ thì quân đội sẽ
đứng lên lật đổ chính phủ Tổng Thống Diệm.
Bí thư của Tổng Thống Diệm là ông Võ Văn Hải yêu cầu bảo toàn Tổng Thống
Diệm nếu loại bỏ ông Nhu. Tân Đại Sứ Lodge báo cáo về Hoa Thịnh Đốn tất cả sự
kiện, nhưng ông Lodge không ủng hộ việc loại bỏ ông Nhu. Ông Lodge khuyên nếu
Mỹ ủng hộ đảo chánh thì nên núp trong bóng tối.
Bức điện văn tố cáo «ông Nhu đang
bị dân chúng chán ghét» được gởi đến bàn ông Phụ Tá Ngoại Trưởng Roger
Hilsman. Ông Hilsman lên án ông Nhu và nói rằng nếu còn ông Nhu thì chẳng những
đưa miền Nam Việt Nam
vào thảm họa, mà còn kéo theo Mỹ xuống bùn đen nữa. Ông Thứ Trưởng Ngoại Giao
Đặc Trách Chính Trị Vụ Averell Harriman cũng đồng ý là Mỹ không nên ủng hộ
chính phủ Diệm-Nhu nữa.
Ngày 24 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge đánh điện văn cho Bộ Ngoại Giao.
Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman phúc đáp, chỉ thị cho tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn
tiếp xúc với các tướng lãnh để thực hiện đảo chánh.
Trúng vào thứ bảy cuối tuần, Tổng Thống Kennedy, Bộ Trưởng Ngoại Giao
Dean Rusk, Bộ Trưởng Quốc Phòng Robert S. McNamara không có mặt tại Hoa Thịnh
Đốn, nhưng các phụ tá của họ như ông Thứ Trưởng Ngoại Giao Harriman, và ông Phụ
Tá Tổng Thống Forrestal có mặt làm việc, với sự hỗ trợ của Phụ Tá Ngoại Trưởng
Hilsman. Các người này thảo một bức điện văn để trả lời cấp tốc cho Đại Sứ
Lodge. Bức điện văn «tối mật» ngày 24
tháng 8 năm 1963 này có nội dung như sau:
«Bộ Ngoại Giao gởi Tòa Đại Sứ Mỹ
tại Sài Gòn để thi hành ngay lập tức. Tối Mật. Không được phép phổ biến. Chỉ
đích thân Đại Sứ Lodge mới được phép đọc mà thôi. Đối với CINPAC/POLAD thì chỉ
Đô Đốc Felt được phép đọc mà thôi.
Theo CAS Sài Gòn 0265 báo cáo về
quan điểm của Tướng Đôn; Saigon 320, Saigon 316, Saigon
329. (Các con số là những ký hiệu mật mã).
Bây giờ thì rõ là hoặc quân đội đề
nghị lệnh thiết quân luật hoặc ông Nhu đã lừa họ. Ông Nhu đã lợi dụng tình
trạng đó để tấn công chùa chiền bằng cảnh sát và Lực Lượng Đặc Biệt của Đại Tá
Tung trung thành với ông ta, làm cho nhân dân Việt Nam và thế giới ngỡ lầm rằng
quân đội làm. Hơn nữa, cũng thật quá rõ là ông Nhu đã âm mưu sắp đặt ông ta vào
vị trí chỉ huy.
Chính phủ Hoa Kỳ không thể dung
dưỡng tình trạng mà quyền hành lại nằm trong tay ông Nhu. Ông Diệm phải loại bỏ
ông Nhu và các thuộc hạ của ông để thay vào đó bằng quân đội tinh nhuệ và các
chính trị gia có tư cách.
Nếu ông (tức Đại Sứ Lodge) cố gắng
hết sức, nhưng ông Diệm vẫn ngoan cố và từ chối thì chúng ta phải đối đầu với
một điều có thể xảy ra, là ngay cả bản thân ông Diệm cũng không thể tồn tại
được.
Ký tên: Hilsman, Forrestal, Ball, W.
Everell Hariman».
Sau khi soạn bản điện văn này, ông Forrestal gọi Tổng Thống Kennedy đang
nghỉ cuối tuần tại Hyannis Port ,
Massachusetts và đọc cho nghe. Tổng
Thống Kennedy hỏi lại: «Có thể chờ cho
đến thứ Hai để có đủ người họp được không?». Ông Harriman và Hilsman trả
lời là «phải cần gởi gấp ngay bây giờ».
Nghe thế, Tổng Thống Kennedy đồng ý và bảo «hãy
gởi đi». Ông Hilsman cũng gọi báo cho Ngoại Trưởng Rusk và cũng được đồng ý
cho phép gởi đi. Ông Hilsman gởi ngay điện văn này qua Tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài
Gòn, và được coi như Mỹ «bật đèn xanh»
đảo chánh.
Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và Giám Đốc CIA McCone chưa được đọc bức
điện văn trước khi gởi đi nên rất bất mãn. Đại Sứ Lodge nhận được điện văn và
gởi ngay cho ông Xếp CIA William Colby, lúc đó đang làm Giám Đốc CIA Vùng Viễn
Đông (Chief of the CIA's Far East Division) trụ sở tại Langley Virginia. Ông
Xếp CIA Colby có quyền đọc tất cả điện văn tại trung tâm chỉ huy CIA ở Virginia .
Ngày 25 tháng 08 năm 1963, Đại Sứ Lodge báo cáo Bộ Ngoại Giao là ông đã
nhận được bức điện văn, nhưng nói “căn bản quyết định vẫn là từ Hoa Thịnh Đốn.
Ngày 26 tháng 08 năm 1963, sáng thứ Hai, các cố vấn của Tổng Thống
Kennedy chia làm hai phe: Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Maxwell Taylor phàn nàn Bộ
Ngoại Giao quyết định làm bức điện văn ngày 24 tháng 08 mà không hội ý các nhân
vật cao cấp, tạo nên sự nghi ngờ về mức độ thành công của việc đảo chánh. Bộ
Trưởng Quốc Phòng và Giám Đốc CIA cùng quan điểm. Giám Đốc CIA McCone cho rằng:
«Tổng Thống Diệm là người lãnh tụ xứng
đáng nhất tại Việt Nam, và CIA cũng khó mà thực hiện được tinh thần bức điện
văn ngày 24 tháng 08 năm 1963». Tổng Thống Kennedy khiển trách ông Phụ Tá
Forrestel đã không chịu giữ lại bức điện văn cho tới thứ Hai. Ông Forrestal xin
từ chức nhưng Tổng Thống Kennedy muốn giữ ông ta lại. Bộ Quốc Phòng bất đồng
với Bộ Ngoại Giao nên muốn có thêm một cơ hội nữa để thuyết phục Tổng Thống
Diệm loại bỏ ông Nhu.
8 giờ sáng, đài VOA lên tiếng chỉ trích cảnh sát của ông Nhu tấn công
chùa chiền, và minh xác là quân đội không có nhúng tay. Đài VOA cũng tuyên bố
Mỹ cắt viện trợ chính phủ Tổng Thống Diệm. Đại Sứ Lodge gọi Ngoại Trưởng Rusk
phàn nàn về việc đài VOA đi thông báo việc cắt viện trợ, vì 11 giờ sáng này Đại
Sứ Lodge sẽ gặp trình Ủy Nhiệm Thư cho Tổng Thống Diệm. Ông Ngoại Trưởng Rush
gởi điện văn qua xin lỗi ông Lodge, và đài VOA đính chính không cắt viện trợ. Trong
dịp này, Đại Sứ Lodge yêu cầu Tổng Thống Diệm loại trừ ông Nhu ra khỏi chức cố
vấn, nhưng quá trễ vì lúc này ông Nhu đã trở thành tai, mắt và là bàn tay sắt
của Tổng Thống Diệm.
Cũng trong ngày này, ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng Trần Thiện Khiêm
tại Bộ Tổng Tham Mưu. Tướng Khiêm khuyên ông CIA Conein tiếp xúc với Tướng
Dương Văn Minh tức «Big» Minh. Tướng
Minh đang là cố vấn quân sự cho Tổng Thống Diệm, và càng tréo cẳng ngổng nữa là
ông ta cũng lại là Chủ Tịch Ủy Ban Đảo Chánh. Trong khi đó thì ông CIA AlSpera
bay lên vùng cao nguyên để gặp tướng Nguyễn Khánh. Tướng Khánh không nêu danh
tánh các tướng tham dự đảo chánh, nhưng khi nghe nhắc đến tên tướng Khiêm thì
tướng Khánh nói «chúng tôi thích vậy».
Thứ Ba ngày 27 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy họp các cố vấn cao
cấp lại. Có cựu Đại Sứ Nolting tham dự. Ông Nolting không tin tưởng cuộc đảo
chánh thành công vì ông cho rằng các tướng đảo chánh không can đảm như anh em
ông Diệm-Nhu, họ không thống nhất mà lại chia rẽ, họ không có lãnh đạo thật sự
và họ không có thực lực quân đội trong tay. Tổng Thống Kennedy hỏi lại ông
Nolting: «Tại sao Tổng Thống Diệm không
giữ lời hứa với chúng ta? Tại sao chính quyền Tổng Thống Diệm dùng sức mạnh đàn
áp Phật Giáo? Bà Nhu hiện đang nắm chức quyền gì?». Ông Nolting cố bào chữa
cho Tổng Thống Diệm và đề nghị chính phủ Mỹ nên cho thêm một cơ hội nữa để đòi
Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu và truất quyền bà Nhu. Ông Nolting nói với Tổng
Thống Kennedy rằng: «Ông Diệm và ông Nhu
cũng giống như cặp song sinh Siamese dính nhau nên không thể tách ra được».
Ông Nolting cũng nhắc cho Tổng Thống Kennedy biết về việc 3 năm trước đây, ông
Đại Sứ Mỹ Durbrow cũng đòi Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu nhưng thất bại nên
đã trở về Mỹ. Tổng Thống Kennedy mỉm cười và nói rằng: «Nếu ông nói đúng, thì chuyến đi của Đại Sứ Lodge kỳ này sẽ là chuyến đi
ngắn nhất trong lịch sử». Cuối cùng Tổng Thống Kennedy vẫn giữ lập trường
ủng hộ bức điện văn ngày 24 tháng 08.
Tại Sài Gòn tất cả trường học đóng cửa, ra lệnh bắt đối lập, tin tức đảo
chánh loan truyền. Các tướng đảo chánh âm thầm di chuyển các đơn vị Dù vào Sài
Gòn. Có 2 đơn vị Dù khác có thể tiến vào thủ đô trong vòng 8 tiếng đồng hồ. Chính
quyền Diệm-Nhu ra lệnh bố trí chống đảo chánh.
Người tín cẩn nhất của chính quyền Diệm-Nhu là Tướng Tôn Thất Đính, Tư
Lệnh Thủ Đô Sài Gòn. Trong tay có 2, 500 lính Dù, 1, 500 lính Thủy Quân Lục
Chiến, 700 Quân Cảnh. Ngoài ra Tướng Đính có liên hệ với Sư Đoàn 5 Bộ Binh.
Chính quyền Diệm-Nhu có Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy 1, 700 lính Phòng
Vệ Phủ Tổng Thống, 900 lính Lực Lượng Đặc Biệt và 700 Cảnh Sát Dã Chiến.
Ngày 08 tháng 08 năm 1963, ông CIA Conein gặp lại các tướng đảo chánh
lần thứ nhì, gồm các Tướng: Dương văn Minh, Trần Thiện Khiêm, Nguyễn Khánh, Lê
Văn Kim và Đại Tá Nguyễn văn Thiệu. Các tướng muốn Mỹ chính thức ủng hộ cuộc
đảo chánh bằng sự lên tiếng của Đại Sứ Lodge.
Ông Trưởng Phòng CIA John Richardson khuyến cáo rằng tình hình không thể
thối lui. Sài Gòn bây giờ đã biến thành một trại lính. Đây là trận đánh cuối
cùng của gia đình Tổng Thống Diệm. Ông tiên đoán rằng các tướng đảo chánh sẽ
thắng, tuy nhiên phải thuyết phục cho được Tướng Tôn Thất Đính và Đại Tá Lê
Quang Tung gia nhập đảo chính. Đảo chánh sẽ chết nhiều sinh mạng. Ông Đại Sứ
Lodge ủng hộ đảo chánh và nói rằng «nếu
trễ sẽ bị thất bại». Trái với ý kiến của ông Trưởng Phòng CIA Richardson và
Đại Sứ Lodge, Tướng Paul D. Harkins, Tư Lệnh Quân Đội Mỹ tại Việt Nam nghi ngờ
khả năng các tướng đảo chánh. Ông khuyên Mỹ nên đứng ngoài cuộc đảo chánh.
Tại Hoa Thịnh Đốn, Hội Đồng An Ninh Quốc Gia họp ủng hộ đảo chánh. Cựu
Đại Sứ Nolting phản đối nói rằng: «Nếu Mỹ
bỏ rơi hai ông Diệm-Nhu tức là Mỹ đã nuốt lời cam kết trong quá khứ». Thứ
Trưởng Ngoại Giao Harriman chống lại ý kiến ông Nolting, và chỉ trích ông
Nolting đã không phục vụ quyền lợi nước Mỹ trong thời gian ông làm đại sứ tại
Việt Nam .
Tổng Thống Kennedy phân vân, nhưng cuối cùng đồng ý ủng hộ cuộc đảo chánh, tuy
nhiên ông muốn trao quyền quyết định cho Đại Sứ Lodge. Tổng Thống Kennedy nói
với ông Lodge: «Tôi tin là ông sẽ không
ngại ngùng khi đưa ra quyết định đình hoãn hay thay đổi kế hoạch đảo chánh nếu
ông nghĩ là cần thiết».
Bây giờ, Ngoại Trưởng Rusk tự tay gởi điện văn cho Đại Sứ Lodge, chỉ thị
mọi cách phải loại bỏ cho được ông bà Nhu ra khỏi chính quyền. Khoan cắt đứt
viện trợ mà hãy chờ cho đến khi nào các tướng sẵn sàng đảo chánh. Sợ rằng nếu
Tổng Thống Diệm biết được thì Tổng Thống Diệm sẽ kêu gọi Bắc Việt ủng hộ để
đánh đuổi Mỹ.
Ngày 29 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy gởi điện văn cho Đại Sứ
Lodge: «Tôi chấp thuận tất cả những điều
đề cập trong cái điện văn mà những vị khác gởi cho ông (tức bức điện văn ‘tối
mật’ ngày 24 tháng 8), và tôi ủng hộ các điều đó hết mình. Chúng tôi sẽ cố gắng
làm hết sức để có thể giúp ông hoàn thành sứ mạng này một cách mỹ mãn. Cho đến
khi các tướng lãnh ra tay, tôi xin được dành cái quyền thay đổi kế hoạch hay
đảo ngược chỉ thị vào giờ chót. Tôi hoàn toàn nhận hết trách nhiệm về bất cứ sự
thay đổi nào, và tôi cũng chịu hoàn toàn trách nhiệm về kế hoạch này và hậu quả
của nó».
Tại Sài Gòn, Chánh Phòng CIA Richardson và ông CIA Conein nhận điện văn
của tướng Cố Vấn Quân Sự Tổng Thống Taylor từ Hoa Thịnh Đốn, đòi phải «suy nghĩ lại» việc ủng hộ đảo chánh. Vì
10 giờ sáng phải gặp lại Tướng Minh, do đó ông Chánh Phòng CIA Richardson ra
lệnh cho ông CIA Conein không được tuyên bố gì mà chỉ đến nghe và về trình lại
ý kiến của Tướng Minh thôi.
Tướng Minh đòi hỏi Mỹ phải chứng tỏ việc ủng hộ các tướng lãnh đảo chánh,
bằng cách tuyên bố Mỹ cắt viện trợ kinh tế cho chính phủ Diệm. Đại Sứ Lodge
điện về Ngoại Trưởng Rusk nói là quá trễ để mà suy nghĩ lại, ông nói: «Chúng ta đã bước sâu quá rồi nên không thối
lui được, hãy dồn mọi nỗ lực ủng hộ các tướng đảo chánh ngay». Đại Sứ Lodge
xin phép để Tướng Harkins tiếp xúc với các tướng đảo chánh và cũng yêu cầu Mỹ cắt
viện trợ kinh tế chính phủ Diệm để các tướng đảo chánh tin tưởng có Mỹ ủng hộ. Cùng
ngày, Tòa Bạch Ốc cho phép Tướng Harkins tiếp xúc các tướng đảo chánh và cho
phép Đại Sứ Lodge cắt đứt viện trợ kinh tế chính phủ Diệm.
Tổng Thống Kennedy gởi thư riêng cho Đại Sứ Lodge nói rằng Tổng Thống
Kennedy ủng hộ các kế hoạch đảo chánh của ông Lodge. Tuy nhiên Tổng Thống
Kennedy không đồng ý với ông Lodge về việc ông Lodge nói là «không thể thối lui được». Tổng Thống
Kennedy nhắc Đại Sứ Lodge về kinh nghiệm đau thương tại Vịnh Con Heo ở Cu Ba. Tổng
Thống Kennedy nói: «Kinh nghiệm dạy tôi
rằng sự thất bại mang lại cái tệ hại nhiều hơn là việc đi thay đổi quyết định… Khi
chúng ta làm, chúng ta phải thắng, nhưng nếu cần phải thay đổi quyết định thì
cũng phải nên thay đổi, hơn là để thất bại».
Thứ Sáu, ngày 30 tháng 08 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lo có cảnh tắm
máu tại Sài Gòn. Ông đưa ra kế hoạch dự trù di tản gần 5, 000 cư dân Mỹ tại
Việt Nam .
Một tàu chiến chở trực thăng, tàu tấn công, tàu destroyer nằm sẵn tại ven biển
Việt Nam .
Tại Okinawa, có 3, 000 Thủy Quân Lục Chiến ứng trực 100%. Tại Bộ Ngoại Giao, Phụ
tá Ngoại Trưởng Hilsman báo cáo lên Ngoại Trưởng Rusk rằng có thể trận đánh đảo
chánh kéo dài quá lâu, và nếu vậy thì quân đội Hoa Kỳ phải nhảy vô vòng chiến
để ủng hộ phe đảo chánh cho thành công.
Ngày 31 tháng 08 năm 1963, Tướng Minh thông báo cho Tướng Harkins biết
là kế hoạch đảo chánh phải «trì hoãn».
Các tướng đảo chánh sợ sự thân thiết giữa Chánh Phòng CIA Richardson với Tổng
Thống Diệm sẽ làm bại lộ kế hoạch đảo chánh. Tướng Harkins mời Tướng Minh đến
cơ quan MACV, và hứa là Mỹ ủng hộ các tướng đảo chánh. Tướng Khiêm thông báo
cho Tướng Minh biết ý kiến của Mỹ.
Ngày hôm sau, Tướng Khiêm lại gặp Tướng Harkins. Tướng Minh lo hoạch
định kế hoạch đảo chánh. Tướng Khiêm thì cho biết là các tướng không có đủ sức
thắng lực lượng trung thành Tổng Thống Diệm. Lực lượng lính Bộ Binh sẽ không
tham dự đảo chánh nếu không đánh tới cùng. Tướng Harkins và ông Chánh Phòng CIA
Richardson báo cáo thẳng về Hoa Thịnh Đốn nói là kế hoạch đảo chánh bất thành. Đại
Sứ Lodge than: «Không có ai, không có tổ
chức nào trong đám tướng lãnh này làm nên trò trống gì cả». Tin tức các
tướng bỏ cuộc đảo chánh khiến cho Tổng Thống Kennedy và các cố vấn tại Tòa Bạch
Ốc hoang mang.
Đầu tháng 9 năm 1963, Tổng Thống Kennedy chỉ định Bộ Trưởng Quốc Phòng
Robert McNamara qua Việt Nam .
Tháp tùng có một số cố vấn cao cấp trong đó có Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng
William Bundy. Tại Việt Nam
có 800 học sinh bị bắt nhốt.
Ngày 02 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy trả lời câu phỏng vấn của
Walter Cronkite trên đài CBS rằng Mỹ vẫn tiếp tục ủng hộ miền Nam Việt Nam, nhưng
ông nói tiếp: «Tôi không nghĩ là có thể
thắng chiến tranh được trừ khi họ được nhân dân ủng hộ. Và theo ý tôi, trong 2
tháng qua chính phủ Diệm đã quá xa rời quần chúng».
Phụ Tá Ngoại Trưởng Hilsman suy diễn lời chỉ trích trực tiếp và công
khai này của Tổng Thống Kennedy rằng sẽ có một cuộc đảo chánh, nhưng không biết
bao giờ xảy ra. Dù vậy, các tướng đảo chánh vẫn án binh bất động. Cùng ngày, phe
ông Nhu viết bài trên báo Times of Viet Nam lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh.
Ông Xếp CIA Colby nói: «Ý họ muốn
khuyên chúng ta nên đứng ngoài». Bà Nhu viết bài chửi Mỹ. Bà xưng bà là
người cứu tinh cho miền Nam Việt Nam, và bà còn tố cáo Mỹ và Cộng Sản giật dây
Phật Giáo biểu tình làm loạn. Bà tố cáo Đại Sứ Lodge mưu sát bà. Để trả thù, em
bà Nhu là ông Trần Văn Khiêm lập một danh sách ám sát lại người Mỹ. Trong cuộc
phỏng vấn với ký giả Úc Denis Warner, ông Khiêm tiết lộ các người Mỹ nằm trong
danh sách bị ám sát đó có tên ông Chánh Phòng CIA Sài Gòn Richardson, ông CIA
Conein và Phát Ngôn Viên Tòa Đại Sứ John Mecklin. Tình cảm giữa Việt Nam và
Hoa Kỳ căng thẳng và tồi tệ trầm trọng.
Trong thời điểm này, Hoa Thịnh Đốn bất mãn việc Pháp đứng làm trung gian
giải quyết chiến tranh Việt Nam .
Đại Sứ Pháp đến miền Nam Việt Nam thảo luận bí mật với Hồ Chí Minh và Tổng
Thống Diệm qua trung gian của người Ba Lan tên Mieczyslaw Maneli, thành viên
Polish Member of the International Control Commission, cơ quan này được thiết
lập để quan sát Hiệp Định Genève. Trong suốt nhiều tháng, Maneli qua lại Sài
Gòn - Hà Nội nhiều lần để tìm giải pháp thương thảo. Vào tháng 07 năm 1963, Bắc
Việt đồng ý căn bản là lập chính phủ Liên Hiệp cầm đầu bởi Tổng Thống Diệm để
miền Nam
trở thành trung lập. Họ muốn Mỹ phải rút quân.
10 giờ 30 sáng ngày 6 tháng 9 năm 1963, tại buổi họp trong Tòa Bạch Ốc, Bộ
Trưởng Tư Pháp Robert Kennedy, tức bào đệ của Tổng Tống John Kennedy nêu ra các
câu hỏi: «Liệu có thắng hai ông Diệm-Nhu?
Liệu ông Nhu có bị ông Diệm loại bỏ? Phải xử sự ra sao nếu không thể thắng ông
Diệm được?». Cuối cùng ông Robert Kennedy đề nghị phải cứng rắn với Tổng
Thống Diệm và cắt đứt viện trợ. Bộ Trưởng Quốc Phòng trả lời là không có cái
tin tức nào chính xác cả. Tướng Taylor đề nghị cử Tướng Victor Krulak đi Việt Nam . Bộ Ngoại
Giao cử ông Joseph A. Mendenhall tháp tùng.
6 giờ sáng ngày 08 tháng 09 năm 1963, hai viên chức này đến Việt Nam . Tướng
Krulak phỏng vấn 80 cố vấn Mỹ luôn cả các viên chức cao cấp. Nhà Ngoại Giao
Mendenhall lại dành thì giờ đi Sài Gòn, Huế, Đà Nẳng để thăm viếng một số bạn
bè cũ.
Ngày 09 tháng 09 năm 1963, hai vị này trở về Hoa Thịnh Đốn phúc trình
lại cho Tổng Thống Kennedy. Tướng Krulak báo cáo là «tinh thần chiến đấu cao và tốt. Việc xáo trộn chính trị không ảnh hưởng
gì đến việc đánh giặc. Dân chúng ghét ông Nhu thôi chứ không ghét Tổng Thống
Diệm». Trái lại, nhà ngoại giao Mendenhall thì báo cáo là «chính phủ Diệm bị dân chúng chán ghét, chế
độ sắp sụp đổ, và không thể chiến thắng Cộng Sản được nếu còn Diệm-Nhu». Nghe
xong hai báo cáo, Tổng Thống Kennedy ngơ ngẫn vì hai báo cáo hoàn toàn trái
ngược nhau, khiến T. T. Kennedy phải hỏi: «Có
phải là hai vị đã đến cùng một quốc gia không vậy?» Tuy vậy, Tổng Thống
Kennedy ra lệnh cho các cố vấn nghiên cứu việc cắt viện trợ kinh tế Việt Nam .
Ngày 11 tháng 09 năm 1963, Tổng Thống Kennedy lại nói chưa thể cắt viện
trợ chính phủ Diệm. Không được đảo chánh. Tổng Thống Kennedy muốn thuyết phục
Tổng Thống Diệm loại bỏ ông Nhu khỏi chính quyền.
Ngày 17 tháng 09 năm 1963, Hội Đồng An Ninh chỉ thị Đại Sứ Lodge hòa
hoãn với Tổng Thống Diệm, nhưng bằng mọi cách thuyết phục Tổng Thống Diệm loại
bỏ ông Nhu. Đại sứ Lodge rất bất mãn vì lệnh này, ông muốn đảo chánh Diệm và
cắt đứt viện trợ. Đại Sứ Lodge liên lạc với Tướng Minh bàn việc đảo chánh. Hội
Đồng An Ninh muốn tìm một giải pháp khác. Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara và
Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Taylor qua Việt Nam để nhìn tận mắt tình hình Phật
Giáo, và nếu cần thì phải áp lực Tổng Thống Diệm. Tháp tùng trong chuyến đi có
ông Xếp CIA Colby, đại diện Tòa Bạch Ốc Forrestal, đại diện Bộ Ngoại Giao
William Sullivan và Phụ Tá Bộ Trưởng Quốc Phòng P. Bundy.
Trước khi trở lại Hoa Thịnh Đốn, Bộ Trưởng Quốc Phòng McNamara, Tướng
Taylor và Tướng Harkins ghé thăm Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng Thống
Diệm hút thuốc liên miên và chỉ tay vào bản đồ để khoe thành tích tiến triển
tốt đẹp. Ông McNamara nhắc Tổng Thống Diệm về các xáo trộn chính trị và tình
hình nguy ngập. Tổng Thống Diệm không đồng ý và bào chữa rằng đó là do báo chí
xuyên tạc làm người Mỹ hiểu lầm. Tổng Thống Diệm phàn nàn các học sinh nông nổi,
thiếu giáo dục và không hiểu trách nhiệm nên gây rối trật tự, do đó không có
giải pháp nào hơn là tống giam họ. Tổng Thống Diệm thú nhận đã để xáo trộn là
vì ông «quá nhẹ tay và đối xử quá tốt với
Phật Giáo».
Tổng Thống Diệm lên án Mỹ ủng hộ đảo chánh. Vì trước khi đi, Tổng Thống
Kennedy đã ra lệnh các nhân viên đừng có ý kiến gì về vấn đề này nên mọi người
đều nín thinh. Bộ Trưởng McNamara hỏi tại sao chính phủ không cải chính những
lời tuyên bố «ồn ào» của bà Nhu, và
nhắc đến việc bà Chiang Kai-shek lạm quyền nên đẩy nước Tàu vào tay Cộng Sản. Tổng
Thống Diệm biện minh rằng «bà Nhu là một
dân biểu, nên bà có quyền phát biểu theo ý của bà. Người Mỹ phải thông cảm cho
bà vì bà bị báo chí truyền thông tấn công và xuyên tạc bà với đầy ác ý». Phái
đoàn không lấy làm thỏa mãn về thái độ của Tổng Thống Diệm.
Ngày 02 tháng 10 năm 1963, phái đoàn trở về Hoa Thịnh Đốn báo cáo tình
hình với Tổng Thống Kennedy: «Về lãnh vực
quân sự tốt, nhưng sự tai tiếng chính trị của hai ông Diệm-Nhu sẽ làm xấu đi».
Thảo kế hoạch cắt viện trợ chương trình Commodity Import Program, đó là chương
trình viện trợ kinh tế giúp Việt Nam 40% số lượng nhập cảng của quốc gia, và sinh
ra một số ngân quỹ lớn cho quân đội. Tổng Thống Kennedy tuyên bố giờ phút này
các cố vấn trong chính phủ ông không còn có những ý kiến dị biệt nữa.
Từ trái: 1. Tướng Dương Văn Minh. 2. Tướng Lê Văn Kim, 3. ?? ? 4. Tướng
Trần Văn Đôn.
Tướng Trần Văn Đôn gặp lại bạn cũ là ông CIA Conein tại Tân Sơn Nhất. Rồi
lại hẹn gặp nhau lại tại Nha Trang, hai trăm dặm cách Sài Gòn. Phó Đại Sứ
Trueheart ra lệnh ông CIA Conein không được tuyên bố gì cả, chỉ lấy tin tức mà
thôi.
Tại Nha Trang, Tướng Đôn công bố đảo chánh. Điều đặc biệt và quan trọng
trong buổi họp này là có sự tham dự của Tướng Tôn Thất Đính. Tướng Tôn Thất
Đính khoe rằng ông là người cứu Tổng Thống Diệm thoát khỏi cuộc đảo chánh tháng
8, từng cứu Tổng Thống Diệm thoát khỏi các vụ đụng đầu với Phật Giáo, Cộng Sản v.v…
Vì những công lao đó nên Tướng Đính xin Tổng Thống Diệm trả ơn bằng cách bổ
nhiệm ông làm Bộ Trưởng Nội Vụ, nhưng bị Tổng Thống Diệm từ chối nên Tướng Đính
sinh ra thù vặt và bất mãn Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn biết được tình cảnh ấm ức
này nên đã tìm cách chiêu dụ Tướng Đính gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn đề nghị
ông CIA Conein gặp riêng với Tướng Minh.
Ngày 05 tháng 10 năm 1963, ông CIA Conein gặp Tướng Minh tại Sài Gòn, nói
chuyện bằng tiếng Pháp. Tướng Minh đưa ra các điểm:
- Phải biết lập trường của Mỹ có ủng hộ chính phủ mới tương lai không?
- Không đòi hỏi Mỹ ủng hộ đảo chánh, nhưng Mỹ đừng cản đường.
- Muốn Mỹ tái viện trợ kinh tế và quân sự cho chính phủ mới.
Tướng Minh đưa ra các kế hoạch giết ông Nhu và giết ông Ngô Đình Cẩn, bao
vây Sài Gòn bằng lính, đánh thẳng vào phòng tuyến bảo vệ Phủ Tổng Thống. Ông
CIA Conein không có ý kiến. Tướng Minh hẹn sẽ gặp lại.
Hoa Thịnh Đốn biết tin nên vừa háo hức mà vừa hồi hộp. Tổng Thống
Kennedy nói với Đại Sứ Lodge rằng chính phủ Mỹ không muốn giật dây cuộc đảo
chánh này, nhưng cũng không muốn bị hiểu lầm là cản trở đảo chánh hay từ chối
viện trợ kinh tế và quân sự cho chính quyền mới. Điều quan tâm lớn nhất của Hoa
Thịnh Đốn là rủi cuộc đảo chánh thất bại thì Mỹ sẽ bị cáo buộc là cấu kết với
đám đảo chánh chủ mưu phản loạn. Tòa Bạch Ốc ra lệnh Đại Sứ Lodge phải cẩn thận
và làm sao để mà «có thể chối được». Các
báo cáo liên quan đến tình hình đảo chánh phải báo cáo riêng, không được báo
cáo chung với bản báo cáo thường nhật của Tòa Đại Sứ. Phải báo cáo riêng và báo
cáo về Hoa Thịnh Đốn phải dùng qua ngã CIA, chứ đừng qua ngã lỏng lẻo Bộ Ngoại
Giao. Hơn nữa, chỉ có Đại Sứ Lodge mới được quyền chỉ thị CIA hành động và chỉ
thị bằng khẩu lệnh mà thôi. Đại Sứ Lodge nói với ông CIA Conein: «Nếu có gì trục trặc, tôi sẽ chối tuốt luốt».
Biết Tướng Minh chống Tổng Thống Diệm, Mỹ tuyên bố cắt viện trợ Tổng
Thống Diệm, hứa ủng hộ tân chính phủ. Muốn chứng tỏ Mỹ ủng hộ các tướng đảo
chánh, Mỹ triệu hồi ông Trưởng Phòng CIA Richardson về Mỹ vì cho rằng ông này
thân thiện với Tổng Thống Diệm.
Ngày 05 tháng 10 năm 1963, Ông Giám Đốc CIA tại Mỹ McCone phản đối kế
hoạch giết ông Nhu và muốn đứng ngoài cuộc đảo chánh. Tuy nhiên vẫn muốn theo
dõi kế hoạch đảo chánh. Ông CIA Conein gặp Tướng Minh nói là Mỹ chống ám sát, do
đó Tướng Minh nói: «Nếu quý vị không
thích thì chúng tôi sẽ không đề cập đến nó nữa». Tướng Minh muốn biết quan
điểm của Mỹ nếu có cuộc đảo chánh «sắp
tới đây». Ông CIA Conein liên lạc với Đại Sứ Lodge và trả lời «bảo đảm ủng hộ chính phủ tương lai». Từ
lúc này, ông CIA Conein biết là nhân vật mà ông cần liên lạc thường xuyên chính
là Tướng trẻ Trần Văn Đôn. Có những cuộc tiếp xúc thường xuyên giữa CIA và các
tướng đảo chánh.
Ngày 17 tháng 10 năm 1963, Mỹ báo cho chính phủ Diệm biết là viện trợ
Lực Lượng Đặc Biệt của ông Nhu chỉ được tiếp tục nếu được chỉ huy bởi quân đội.
Tướng Đôn gặp Đại Sứ Lodge tại một buổi tiệc. Ông Lodge nói là không có nhận
được dấu hiệu đảo chánh nào cả.
Ngày 24 tháng 10 năm 1963, Trung Tá Phạm Ngọc Thảo kéo quân vể Sài Gòn
đảo chánh hụt vì các tướng đảo chánh tại Sài Gòn thay đổi kế hoạch.
Ngày 25 tháng 10 năm 1963, ông CIA Conein hỏi Tướng Đôn bao giờ đảo
chánh? Tướng Đôn trả lời là không biết và hỏi lại ông CIA Conein có được phép
của chính phủ Mỹ để thảo luận về cuộc đảo chánh không? Conein trả lời là Đại Sứ
Lodge ra lệnh. Sau đó Tướng Đôn được Đại Sứ Lodge xác nhận tại phi trường.
Ngày 27 tháng 10 năm 1963, Tổng Thống Diệm mời vợ chồng Đại Sứ Lodge lên
Đà Lạt gặp mặt. Sau nhiều lần thuyết phục nhưng Tổng Thống Diệm không nghe, Đại
Sứ Lodge nói với Tổng Thống Diệm: «Thưa
Ngài, tất cả lời đề nghị rõ ràng của tôi đều bị Ngài từ chối hết. Theo Ngài
nghĩ thì liệu Ngài có thể làm cái gì mà điều đó có thể đem lại cái nhìn thiện
cảm nơi người Hoa Kỳ?». Mỗi lần nhắc câu hỏi giống vậy thì Tổng Thống Diệm
lại đổi đề tài.
Ngày 28 tháng 10 năm 1963, Tướng Đôn gặp ông CIA Conein tại Bộ Tổng Tham
Mưu. Tướng Đôn không cho biết chắc chắn ngày đảo chánh, nhưng nói là rất gần. Tướng
Đôn nói sẽ thông báo cho Tòa Đại Sứ biết vài giờ trước khi bắt đầu đảo chánh. Tuy
nhiên Tướng Đôn muốn Đại Sứ Lodge đừng đình chuyến bay Hoa Thịnh Đốn đã định
vào ngày 31 tháng 10 năm 1963. Tướng Đôn cho biết nhiệm vụ Tướng Minh lo quân
đội, Tướng Kim lo chính trị, và Tướng Đôn lo liên lạc với Mỹ. Hỏi về nhiệm vụ
Tướng Tôn Thất Đính, Tướng Đôn nói Tướng Đính vì từng trung thành với Tổng
Thống Diệm, nên do đó không dám giao trọng trách vì e ngại bị phản.
Ngày 29 tháng 10 năm 1963, Đại Sứ Lodge thông báo cho Hoa Thịnh Đốn sắp
có đảo chánh. Nói rằng không thể trì hoãn được và không kịp thông báo cho Tổng
Thống Diệm.
Ngày 30 tháng 10 năm 1963, Mc George Bundy gởi điện văn nói là Tổng
Thống Kennedy vẫn còn ý muốn đảo chánh. Tổng Thống Kennedy chỉ thị Đại Sứ Lodge
«nên can thiệp nếu cảm thấy kế hoạch đảo
chánh nguy hiểm, chúng ta ủng hộ nếu thấy diễn tiến đảo chánh tốt, nhưng nếu
thấy tình hình không thuận tiện thì trì hoãn lại để khỏi làm ảnh hưởng đến chỗ
đứng của Mỹ tại Đông Nam
Á».
Bản điện văn thứ nhì của Tòa Bạch Ốc thì bày tỏ sự bất mãn và nói rằng «chúng ta không thể chấp nhận cái luận điệu
cho rằng chúng ta không có đủ tư cách để trì hoãn hay ngăn cản cuộc đảo chánh».
Đại Sứ Lodge nghĩ là chính phủ Mỹ muốn ngăn cản đảo chánh, do đó ông gởi
một điện văn về Hoa Thịnh Đốn: «Đừng có
nghĩ là chúng ta có quyền trì hoãn hay ngăn cản đảo chánh. Không thể thông báo
cho Tổng Thống Diệm được vì làm như vậy là chúng ta phản bội các tướng lãnh đảo
chánh».
Trái lại, đối với ông Xếp CIA Colby thì nhận định lại khác: «Bây giờ đảo chánh thì nói là do người Việt
Nam làm, nhưng theo tôi nghĩ thì trên thực tế quyết định này đã được Tòa Bạch
Ốc quyết định từ vài tuần trước, lúc mà trong cuộc họp báo công khai tuyên bố
là cần có một bộ mặt mới trong chính phủ Việt Nam, ám chỉ muốn thay đổi hai anh
em Diệm-Nhu. Chúng ta cắt ngân khoản CIA viện trợ Lực Lượng Đặc Biệt của ông
Nhu, điều đó có nghĩa là khi chúng ta không đồng ý với họ chỗ nào thì chúng ta
cắt chỗ đó. Mỹ đã bật đèn xanh để các tướng đảo chánh ra tay».
Tư Lệnh Mỹ tại Việt Nam ,
Tướng Harkins không tin tưởng Đại Sứ Lodge và cũng không tin tưởng các tướng
lãnh đảo chánh. Ông nói: «Tướng Đôn nói
dối, ông ta nói với ông CIA Conein là có đảo chánh trước ngày 02 tháng 11, nhưng
lại nói với tôi là không có đảo chánh».
Tổng Thống Ngô Đình Diệm (1/03/1901 - 11/02/1963)
Tướng Harkins ra lệnh Thủy Quân Lục Chiến lên bờ Việt Nam . Tướng
Harkins gởi điện văn cho Tướng Taylor ở Mỹ bày tỏ sự chống đối âm mưu đảo chánh
Tổng Thống Diệm. Ông nói: «Chúng ta ủng
hộ T. T. Diệm trong suốt 8 năm khó khăn. Thật sai lầm nếu hạ ông xuống, đá ông
lăn lóc và đi truất phế ông ta». Chống lại ý kiến ủng hộ đảo chánh của Đại
Sứ Lodge, Tướng Harkins gởi điện văn cho ông Lodge: «Chúng ta phải cần thu thập thêm tin tức. Mặc dù Tướng Đôn tuyên bố là
đảo chánh là do chính người Việt Nam thực hiện. Tuy nhiên trong ngày
gần đây rồi Mỹ cũng phải nhào vô dù có muốn hay không. Chúng ta cần phải tiếp
tục ủng hộ Tổng Thống Diệm cho đến khi nào chịu đựng hết nổi».
Ngày 31 tháng 10 năm 1963, Hoa Thịnh Đốn gởi cho Đại Sứ Lodge một điện văn
được coi là điện văn cuối cùng. Nội dung là chính phủ Mỹ ra lệnh: «Không được đứng về phe nào. Nếu tình thế xảy
ra không rõ ràng, thì Mỹ phải đứng hòa hoàn giữa hai bên. Nếu đảo chánh bị thất
bại, tòa đại sứ nên cho phép họ tỵ nạn tùy theo sự quyết định của Đại Sứ Lodge.
Nhưng cố gắng khuyến khích họ nên đi nơi khác tỵ nạn. Dù vậy, nếu có cuộc đảo
chánh xảy ra thì Mỹ vẫn mong là nó thành công». Đại Sứ Lodge đình chuyến
bay trong ngày này.
Ngày 01 thá ng 11 năm 1963, Tướng Trần Văn Đôn đến Bộ Tổng Tham Mưu lúc
7 giờ 30 sáng, 6 tiếng đồng hồ trước khi đảo chánh. Tướng Đôn chuẩn bị gặp
Tướng Harkins và Đô Đốc Tư Lệnh Thái Bình Dương Harry D. Felt lúc 9 giờ 15 sáng.
Đô Đốc Felt muốn gặp Tướng Đôn tại Bộ Tổng Tham Mưu nhưng Tướng Đôn lại muốn
gặp nhau tại cơ quan MACV. Tướng Đôn nói chuyện bình thường. Ông nói nếu đảo
chánh thành công thì sẽ thắng Cộng Sản. Trong khi nói chuyện, Đô Đốc Felt chỉ
lên bản đồ hỏi rằng có 2 Tiểu Đoàn Dù chưa đồng ý gia nhập đảo chánh. Tướng Đôn
bảo đảm là các lực lượng này trên đường đến Tây Ninh, Tây Bắc của Sài Gòn, sẽ
kéo về thủ đô và chủ động cuộc đảo chánh.
9 giờ 45 sáng, Đô Đốc Felt rời MACV để đến thăm Tổng Thống Diệm. Tướng
Đôn sợ Tổng Thống Diệm rời Sài Gòn nên nhờ Đô Đố Felt cầm chân Tổng Thống Diệm.
Đại Sứ Lodge làm hẹn và muốn tham dự. Gặp mặt tại Dinh, Tổng Thống Diệm nói: «Mỗi lần Đại Sứ Mỹ đi Hoa Thịnh Đốn là có tin
đồn đảo chánh. Tôi biết là đang có sửa soạn đảo chánh, nhưng tôi không biết ai
chủ mưu vì họ giữ bí mật kỹ quá». Khi Đại Sứ Lodge sắp đi thì Tổng Thống Diệm
kéo qua một bên và nói là ông sẳn sàng thực hiện những điều chính phủ Mỹ muốn
ông ta làm. Nhưng đã quá trễ, lúc Đại Sứ Lodge và Đô Đốc Felt từ biệt thì lính
đã bao vây thủ đô Sài Gòn.
11 giờ 45 sáng, Đô Đốc Feelt chào Tổng Thống Diệm trở lại CINCPAC, có
Tướng Đôn và Tướng Harkins đi cùng. Đô Đốc Felt họp báo tại phi trường Tân Sơn
Nhất. Sau khi Đô Đốc Felt đi thì Tướng Đôn và Tướng Harkins ăn trưa với nhau.
Đại Sứ Lodge ngồi lại nói chuyện với Tổng Thống Diệm tại Dinh Gia Long. Tổng
Thống Diệm nói là Mỹ giật dây xúi Phật Giáo biểu tình và tung tin đảo chánh. Đại
Sứ Lodge trả lời: «Thưa Ngài, nếu một
người Mỹ nào hứa hẹn một điều gì sai trái thì tôi sẽ tống cổ họ ra khỏi nước
ngay». Bào chữa cho ông Cố Vấn Nhu, Tổng Thống Diệm khuyên ông Lodge nên gọi
nói chuyện với ông Xếp CIA Colby và cựu Đại Sứ Nolting để họ giải thích cho ông
Lodge biết lý do tại sao Tổng Thống Diệm cần đến ông Nhu nhiều như vậy.
Trước khi Đại Sứ Lodge đứng ra về, Tổng Thống Diệm nói: «Xin ông vui lòng nói với Tổng Thống Kennedy
rằng tôi là đồng minh tốt và thẳng thắn, tôi muốn là chúng ta nên thẳng thắn
cùng giải quyết những vấn đề bây giờ hơn là nói về nó sau khi chúng ta đã mất
tất cả».
CIA E.
Khi Đại Sứ Lodge tiếp chuyện với Tổng Thống Diệm thì có một vị tướng đến
nhà ông CIA Conein báo tin giờ đảo chánh sắp bắt đầu. Vị tướng này bảo ông CIA
Conein mang tất cả số tiền lên Bộ Tổng Tham Mưu. Ông CIA Conein ôm 3 triệu đồng
Việt Nam
tương đương với 42, 000 mỹ kim ra đi. Ông mang theo khẩu súng lục và mấy trái
lựu đạn và một cái máy truyền tin đặc biệt để liên lạc với các viên chức CIA
khác. Theo ông Conein thì số tiền này được rút từ quỹ của CIA để dùng mua thực
phẩm cho lính đảo chánh và bồi thường các gia đình có lính chết vì đảo chánh. Trước
khi đến Bộ Tổng Tham Mưu, ông CIA Conein bấm mật mã 9, 9… 9, 9… 9, 9 để thông
báo đến các nhân viên CIA biết đảo chánh bắt đầu. Tuy nhiên, theo tờ báo Times
of Viet Nam phát hành ngày 02 tháng 09 năm 1963, trên trang nhất có tựa lớn «CIA Tài Trợ Đảo Chánh» (CIA Financing
Planned Coup d'Etat). Trong bài báo này có nói đến việc cơ quan CIA của Mỹ chi
từ 10 triệu tới 24 triệu để tài trợ cho cuộc đảo chánh chính phủ Tổng Thống
Diệm. Số tiền này được ứng ra để trả lương và tưởng thưởng cho lính, cảnh sát, công
chức. Và số tiền đó cũng được dùng để trả cho các tổ chức Phật Giáo, phong trào
thanh niên đấu tranh, các cơ sở tuyên truyền và cho các trường hợp bất khả
kháng. Tòa Đại Sứ Mỹ từ chối nguồn tin này. Khi hỏi Tổng Thống Diệm thì Tổng
Thống Diệm nói: «Ông có nghĩ là tờ báo
Times of Viet Nam
lại đi in như vậy nếu đó không phải là sự thật?». Sau đó Tổng Thống Diệm có
trưng dẫn một số bằng chứng để xác nhận điều đó là đúng.
Các tướng đảo chánh đã nối đường dây điện thoại từ Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh
và Tòa Đại Sứ. Một đường dây điện thoại khác được bắt từ Bộ Tổng Tham Mưu đến
tư thất của ông CIA Conein với mục đích để ông CIA Conein có thể liên lạc
thường xuyên với 12 lính Biệt Kích «A»
Team đang bảo vệ vợ con ông. Nếu đảo chánh bất thành, các người lính này sẽ tự
động đưa vợ con ông ra khỏi nước. Ông CIA Conein đến Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh
khoảng 12 giờ 15 - 12 giờ 30 trưa. Tướng Đôn vắng mặt vì tiển Đô Đốc Felt ra
phi trường. Khi Tướng Minh nhìn thấy người Mỹ thì hất hàm hỏi: «Ông làm gì đây?». Ông CIA Conein trả lời
là «Tôi được kêu tới đây». Tướng Minh
dằn mặt: «Nếu đảo chánh thất bại thì ông
phải đi cùng với chúng tôi».
Hầu hết các tướng lãnh trung thành với Tổng Thống Diệm hay theo đảo
chánh đều đến Bộ Tổng Tham Mưu do Tướng Tổng Tham Mưu Trưởng Trần Thiện Khiêm
khoản đãi. Sau khi mọi người an tọa, Tướng Minh đứng dậy và tuyên bố đảo chánh,
vừa lúc đó Quân Cảnh tràn vào phòng với súng tiểu liên vây xung quanh. Tướng
Minh kêu gọi các tướng ủng hộ đảo chánh. Họ được phép rời phòng Tổng Tham Mưu
nhưng không được ra khỏi Bộ Chỉ Huy.
Những vị còn ngồi tại chỗ, trong đó có Đại Tá Lê Quang Tung phản đối đảo
chánh bị tống giam ngay. Tướng Minh sai đem cái máy thâu băng vào phòng, trong
băng ông thâu lời tuyên bố đảo chánh, lên án gia đình Tổng Thống Diệm độc tài
và hứa là quân đội có khả năng cai trị nước hơn. Tướng Minh đòi các tướng hiện
diện ký vào bản tuyên cáo và hỗ trợ quân đội đảo chánh. Ông phân phát cho các
tướng những cuốn băng để phân phối đến các đài phát thanh. Nếu đảo chánh thất
bại thì các tướng không thể chối được việc mình tình nguyện tham gia đảo chánh.
1 giờ 30 quân đội phát động đảo chánh. Thông thường là đảo chánh ban đêm,
nhưng lần này đảo chánh ban ngày nên lính chính phủ Tổng Thống Diệm không chuẩn
bị ứng phó kịp thời. Lính đảo chánh mang khăn quàng đỏ, dấu hiệu đảo chánh tại
miền Nam Việt Nam .
Hai tiểu đoàn Thủy Quân Lục Chiến tiến vào Sài Gòn từ Biên Hòa. Một tiểu đoàn
Dù, một tiểu đoàn Bộ Binh từ Vũng Tàu. Hai tiểu đoàn Dù từ Bình Dương. Sư Đoàn
5 Bộ Binh và Quân Trường gần đó. Đụng độ yếu ớt, quân đảo chánh chiếm phi
trường Tân Sơn Nhất, Bộ Chỉ Huy Hải Quân, Bộ Quốc Phòng. Khoảng 500 Thủy Quân
Lục Chiến bao vây Tổng Nha Cảnh Sát vì nơi đó phe Tổng Thống Diệm chứa rất
nhiều vũ khí. Lính đảo chánh chiếm Sở Bưu Điện Trung Ương và Phòng Điện Tín. Phe
chính phủ Tổng Thống Diệm tử thủ tại Đài Phát Thanh Sài Gòn và các đài phát
thanh khác.
3 giờ chiều, Tướng Đôn gọi cho Tòa Đại Sứ để hỏi có kế hoạch nào để đưa
Tổng Thống Diệm và gia đình ra khỏi Việt Nam nếu họ đầu hàng, Đại Sứ Lodge nói
chắc chắn có máy bay vì chính Đại Sứ Lodge đang có máy bay sẵn dự định để chở
ông đi Mỹ, nhưng ông hoãn lại chuyến bay.
3 giờ 30 chiều, quân đảo chánh chiếm Đài Phát Thanh. Đụng độ nặng nề
nhất là tại lô cốt Cộng Hòa của lực lượng Phòng Vệ Phủ Tổng Thống gần Dinh Gia
Long. Chiến xa của phe trung thành Tổng Thống Diệm bắn hỏa tiễn vào các cao ốc
làm bể kiếng khiến dân chúng hốt hoảng di tản.
Khi nghe báo cáo là gặp sức kháng cự quá mạnh của phe Tổng Thống Diệm
tại lô cốt Cộng Hòa, Tướng Khiêm gọi Trung Tá Nguyễn Cao Kỳ tại Bộ Chỉ Huy
Không Quân, Tướng Khiêm nói: «Kỳ, lính
phòng vệ ông Diệm chống cự mạnh quá và thì giờ không còn nhiều nữa. Ngay bây
giờ hay không còn dịp khác nữa, ông có sẵn sàng giúp đỡ không?» Kỳ trả lời:
«Dĩ nhiên, ngay lập tức». Với tướng
mạo màu mè, bộ râu kẽm, luôn choàng cái khăn cổ tím và mang bên mình cái súng
lục cán mạ ngà voi, ông ra lệnh cho 2 phi công xuất trận. Khoảng 4 giờ chiều, hai
chiếc máy bay T-28 xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn, một chiếc từng dội bom Dinh
Độc Lập năm 1962. Bom thả trật mục tiêu, một quả bom thả rớt xướng hầm trống
của Thủy Quân Lục Chiến Mỹ bên kia Dinh Gia Long. Dù là bị oanh kích, nhưng
trận đánh vẫn tiếp diễn tới tối.
Khi nhận được báo cáo đầu tiên về việc có quân đội tiến về Dinh Gia Long
một cách bất thường, ông Nhu tỏ ra không mấy quan ngại. Ông nghĩ đó chính là
nằm trong kế hoạch đảo chánh giả của ông gồm 2 phần: nhận diện và tiêu diệt đám
đối nghịch chế độ. Phần một ám hiệu là Bravo I, một cuộc đảo chánh giả. Với rất
nhiều đơn vị lính trung thành với chế độ trú đóng xung quanh Sài Gòn, các lực
lượng này sẽ tấn công một số mục tiêu đã được định sẵn trong thủ đô. Khi cuộc
tấn công bắt đầu, Tổng Thống Diệm và ông Nhu sẽ thoát xuống Vũng Tàu, cách Sài
Gòn 50 dặm về phía Đông-Nam. Sau nhiều ngày vô luật lệ và xáo trộn, chính phủ
của phe phản loạn sẽ ra mặt. Lúc đó những lực lượng lính trung thành với chính
phủ Diệm sẽ tiến vào Sài Gòn và tiêu diệt phản loạn trong phần «phản đảo chánh» với ám hiệu Bravo II. Theo
kế hoạch này, ông Nhu tiên đoán là «chúng
ta sẽ lừa bọn tay sai của Mỹ rúc hết vào một cái rọ trong thủ đô».
Nhưng thật rủi cho anh em Tổng Thống Diệm, ông Nhu vì quá tin nên giao
kế hoạch làm đảo chánh giả cho Tướng Tôn Thất Đính thực hiện. Vào trưa 01 tháng
11 ông Nhu cố liên lạc với Tướng Đính nhưng không gặp, ông Nhu liên lạc với các
tướng trung thành chế độ nhưng cũng không gặp được, lúc đó thì ông Nhu mới nhận
thức ra là đảo chánh thật.
Khoảng sau 4 giờ chiều, Tổng Thống Diệm gọi Tướng Khiêm, người đã cứu
Tổng Thống Diệm trong cuộc đảo chánh năm 1960. Thay vì nói chuyện với Tướng Khiêm,
thì Tướng Đôn trả lời. Tổng Thống Diệm hỏi: «Các tướng đang làm cái gì vậy?». Tướng Đôn trả lời: «Thưa Ngài, thời điểm đã đến, quân đội phải
đáp lại nguyện vọng của đồng bào». Tổng Thống Diệm quở trách Tướng Đôn ăn
nói thiếu lễ độ. Sau đó Tổng Thống Diệm tuyên bố là ông muốn thực hiện những
điều cải tổ như ý quân đội miền Nam Việt Nam đòi hỏi trong tháng 09 rồi. Tổng
Thống Diệm mời Tướng Đôn và những tướng lãnh khác vào Dinh Gia Long để thảo
luận. Vì nhớ lại cái kinh nghiệm chua cay của cuộc đảo chánh thất bại 1960 khi
Tổng Thống Diệm dùng kế hoãn binh để đoàn quân trung thành với ông có đủ thì
giờ về giải cứu, do đó Tướng Đôn từ chối lời mời.
4 giờ 30 chiều, Tổng Thống Diệm gọi điện thoại cho Đại Sứ Lodge hiện
đang ở nhà. Theo lời Đại Sứ Lodge báo cáo cho Bộ Ngoại Giao sau này, thì cuộc
đối thoại có nội dung như sau:
«Tổng Thống Diệm: Có một số đơn vị
lính phản loạn và tôi muốn biết thái độ của chính phủ Mỹ ra sao?
Đại Sứ Lodge: Tôi hiện không có đủ
chi tiết để trình với Ngài. Tôi có nghe tiếng súng nổ, nhưng tôi không biết
nguyên do. Vả lại, bây giờ ở Hoa Thịnh Đốn là 4 giờ 30 sáng do đó chính phủ Mỹ
chắc không thể có quan điểm gì.
Tổng Thống Diệm: Nhưng ông phải có
vài ý kiến tổng quát chứ? Tôi là Tổng Thống. Tôi đã cố gắng thi hành những bổn
phận của tôi. Bây giờ tôi muốn sử dụng cái bổn phận của tôi. Tôi tin là bổn
phận trên tất cả.
Đại Sứ Lodge: Ngài lẽ dĩ nhiên đã
làm những bổn phận của Ngài. Tôi cảm phục sự can đảm và công lao đóng góp lớn
lao của Ngài vào quốc gia của Ngài. Không ai có thể tướt đi cái công ơn mà Ngài
đã làm. Bây giờ tôi đang lo ngại cho sự an toàn tính mạng của Ngài. Tôi đã sắp
xếp để đưa Ngài và em của Ngài ra nước ngoài để bảo toàn tính mạng nếu Ngài từ
chức. Còn nếu như Ngài không đồng ý, thì tôi cũng đã sắp đặt để Ngài mang tước
vị Quốc Trưởng và Ngài có thể ở lại đây an toàn.
Tổng Thống Diệm: Không, không, tôi
không muốn vậy. Tôi muốn tái lập trật tự. Tôi phải tái lập trật tự. (cúp máy)
Tướng Đôn có kể lại là trong khi
đang đảo chánh thì Tổng Thống Diệm gọi điện thoại nói chuyện với Tướng Đôn, Tướng
Đôn nói với Tổng Thống Diệm: “Thưa Tổng Thống, tôi lấy làm tiếc về sự việc xãy
ra, nhưng điều tôi muốn Tổng Thống bây giờ là hãy khôn ngoan và hiểu cho hoàn
cảnh, và hiện có một chiếc máy bay đặc biệt sẵn sàng đưa Tổng Thống và gia đình
ra khỏi nước nếu Tổng Thống đầu hàng vô điều kiện.»
Cả chiều 01 tháng 11, nhiều tướng đảo chánh gọi vào Dinh kêu gọi Tổng
Thống Diệm và ông Nhu đầu hàng.
4 giờ 30, Tướng Minh lên tiếng với ông Nhu rằng nếu ông Nhu và Tổng
Thống Diệm không ra đầu hàng thì Dinh Tổng Thống sẽ bị pháo kích và dội bom. Phe
đảo chánh mang Đại Tá Lê Quang Tung đến, ông ta là người chỉ huy Lực Lượng Đặc
Biệt trung thành với Tổng Thống Diệm.
Họ kê súng vào đầu Đại Tá Tung bắt gọi. Đại Tá Tung báo cáo thẳng là phe
đảo chánh bắt giam tất cả tướng lãnh và viên chức trung thành chính phủ, và
Tướng Khiêm với Tướng Đính đã gia nhập phe đảo chánh rồi. Đại Tá Tung kêu gọi
đầu hàng, nhưng ông Nhu không chịu.
Tối hôm đó, phe đảo chánh trói tay Đại Tá Tung và em của ông ta giữ chức
Phó Chỉ Huy Lực Lượng Đặc Biệt Họ bị giao cho cận vệ của Tướng Minh chở về Bộ
Tổng Tham Mưu bắn chết và chôn vào 2 cái hố mới được đào.
5 giờ 15 chiều, Tướng Minh gọi Tổng Thống Diệm đầu hàng. Tổng Thống Diệm
từ chối nói chuyện với Tướng Minh phản loạn và khinh bỉ cúp máy. Quá tức giận
về thái độ của Tổng Thống Diệm làm bẽ mặt Tướng Minh trước binh sĩ, sau đó vài
tiếng, Tướng Minh gọi lại vào Dinh, Tướng Minh dọa nếu anh em Tổng Thống Diệm
không ra đầu hàng thì Dinh này sẽ trở thành «bình địa». Tổng Thống Diệm vẫn từ chối nói chuyện với vị tướng lãnh
đạo cuộc đảo chánh này.
Để chứng tỏ lời đe dọa là thật, Tướng Minh ra lệnh tấn công vào Dinh. Lý
do Tướng Minh chần chừ không tấn công là vì muốn giảm thiểu sự đổ máu của hai
bên. Hơn nữa, Tướng Minh và các tướng đảo chánh không có ý định tấn công vào
Dinh là vì nghĩ là khi thấy lực lượng quân đội đảo chánh hùng hậu như vậy thì
tự động anh em Tổng Thống Diệm ra đầu hàng. Sự từ chối giải pháp đầu hàng của
Tổng Thống Diệm đã làm Tướng Minh và các tướng ngạc nhiên, bực tức vô cùng.
Không tướng nào muốn tấn công vào Dinh Gia Long cả. Tổng Thống Diệm hiện
vẫn còn là khuôn mặt đáng kính. Họ không muốn mang tiếng nhục khi tấn công trực
tiếp vào Tổng Thống Diệm. Các tướng đảo chánh chọn Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu vì
Đại Tá Thiệu là người Công Giáo. Họ muốn người Công Giáo diệt người Công Giáo. Đó
là lối lý luận và tính toán của các tướng đảo chánh theo đạo Phật.
Khoảng hơn 3 giờ sáng ngày 02 tháng 11 năm 1963, Đại Tá Thiệu tấn công
Dinh Gia Long bằng vũ khí hạng nặng. 50 caliber, 75 mm và xe tăng, phá sập cổng
Dinh, dù vậy Tổng Thống Diệm cũng không chịu đầu hàng.
Rạng sáng, phe đảo chánh tiến vào Dinh Gia Long với cảnh tượng đổ nát, ngổn
ngang. Họ tìm kiếm Tổng Thống Diệm và ông Nhu, lúc đó mới phát giác là hai ông
đã thoát thân từ lúc 8 giờ tối hôm qua, tức buổi tối 01 tháng 11.
Anh em Tổng Thống Diệm trốn khỏi Dinh Gia Long bằng đường hầm bí mật
cổng sau và chạy lên núp trong một nhà của người thương gia Tàu tên là Mã Tuyên
tại Chợ Lớn vào lúc 9 giờ tối ngày 01 thá ng 11. Trong nhà này trang bị đầy đủ
hệ thống điện thoại tối tân để Tổng Thống Diệm và ông Nhu gọi cầu cứu. Hai ông
muốn lên cao nguyên hoặc xuống biển để đích thân điều động cuộc «phản đảo chánh», nhưng khi gọi không
được ai thì hai ông thất vọng não nề. Hai ông có ý xin tỵ nạn tại tòa Đại Sứ
Trung Hoa Quốc Gia nhưng thất bại.
6 giờ sáng, Tổng Thống Diệm gọi Tướng Đính ra lệnh các tướng đảo chánh
đầu hàng.
6 giờ 20 sáng, Tổng Thống Diệm vẫn lại từ chối nói chuyện với Tướng Minh,
nhưng lại gọi Tướng Đôn và chịu đầu hàng trong «danh dự». Hai ông muốn được hộ tống ra phi trường an toàn để đi ra
khỏi nước. Tướng Minh vì bị Tổng Thống Diệm làm nhục mấy lần trước mặt binh sĩ
nên không chấp nhận cho anh em Tổng Thống Diệm đầu hàng cho đến khi nào «người Việt ngưng giết người Việt», có ý
là tại Dinh Gia Long vẫn đang còn đánh nhau.
Ba mươi phút sau, Tổng Thống Diệm gọi lại Bộ Chỉ Huy Đảo Chánh, Tổng
Thống Diệm báo là ông đã ra lệnh lính Phòng Vệ Phủ Tổng Thống ngưng bắn và ông
đồng ý đầu hàng vô điều kiện. Lần này các tướng đồng ý.
Trong khi thương thảo, các tướng đảo chánh yêu cầu ông CIA Conein thu
xếp máy bay chở Tổng Thống Diệm và gia đình ra khỏi nước. Ông CIA Conein gọi
cho Phó Trưởng Phòng CIA David Smith. Chờ độ 10 phút thì ông Smith trả lời là
cần 24 tiếng đồng hồ mới thu xếp có máy bay. Chính phủ Mỹ muốn đưa Tổng Thống
Diệm bay đến một quốc gia khác tỵ nạn, có lẽ là Âu Châu, vì tại đó ông khó về
để phục thù. Chuyến bay được chỉ thị phải bay trực tiếp và không được ngừng lấy
xăng, và chỉ ở Guam mới có loại máy bay đó mà
thôi. Ông CIA Conein báo lại cho các tướng đảo chánh biết lời của ông Trưởng
Phòng CIA Smith, Tướng Minh gắt gỏng nói: «Chúng
tôi không thể giữ họ lâu nữa được».
Chấp thuận lời đầu hàng của anh em Tổng Thống Diệm, Tướng Minh ra lệnh
cho một chiếc xe thiết giáp M 113 và 4 xe Jeep đi đón anh em Tổng Thống Diệm do
Tướng Mai Hữu Xuân và Đại Tá Dương Ngọc Lắm cầm đầu. Sau khi cái xe rời Bộ Tổng
Tham Mưu thì được báo là anh em Tổng Thống Diệm không có tại Dinh Gia Long. Tướng
Minh ra lệnh lục soát khu vực Sài Gòn, và do chỉ điểm của mật báo viên, các
tướng đảo chánh mới biết là anh em Tổng Thống Diệm đang ở nhà thờ tại Chợ Lớn. Đoàn
xe được lệnh đổi lộ trình và tiến về Chợ Lớn.
8 giờ 30 sáng, Tổng Thống Diệm và ông Nhu cùng mặc bộ đồ vest màu xám bị
bắt tại nhà thờ Don Thanh mà hay gọi là nhà thờ Cha Tam tại Chợ Lớn trong khi
họ đang cầu nguyện vì là ngày lễ Các Đẳng Linh Hồn của đạo Công Giáo.
Theo lời kể của một sĩ quan Việt Nam : «Tổng Thống Diệm thì chứng tỏ cái phong cách lịch sự, nhưng ông Nhu thì
kèn cựa cho tới phút chót». Ông Nhu phản đối: «Các ông đem chiếc xe như vậy để mà chở Tổng Thống hả?». Hai tay bị
trói ra đàng sau, hai ông bị đẩy vào trong chiếc xe thiết giáp M113. Trên đường
về Bộ chỉ Huy, đoàn xe ngừng tại cổng xe lửa độ 5 phút. Theo hầu hết lời kể, thì
chính cận vệ của Tướng Minh là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung đã bắn và đâm anh em
Diệm-Nhu.
Theo lời kể khác, thì Thiếu Tá Dương Hiếu Nghĩa tài xế xe thiết giáp
cũng là người giết hai ông. Theo lời kể của Tướng Khánh, người điều tra cái
chết của Tổng Thống Diệm sau cuộc chỉnh lý nói rằng: «Đại Úy Nhung đã giết anh em ông Diệm. Nó là tên giết người chuyên
nghiệp. Nó đã giết 40 người, nó gạch một gạch trên dao găm mỗi lần nó giết một
người». Đại Úy Nhung bị Tướng Khánh giam năm 1964 nhưng không sống lâu để
khai ai ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm, và Đại Úy Nhung bị chết trong nhà
tù bằng cách treo cổ.
Có nhiều mâu thuẫn giữa các tướng trong việc ai là người ra lệnh giết
anh em Tổng Thống Diệm. Theo lời thuật của Tướng Đôn trong quyển hồi ký của ông
ta thì Tướng Minh ra lệnh giết anh em Tổng Thống Diệm. Tướng Đôn viết: «Tôi khẳng định là Tướng Minh và một mình ông
ta quyết định thôi». Trái lại, các sĩ quan cho rằng nếu không phải tất cả, thì
hầu hết các tướng đảo chánh đã cùng quyết định giết Tổng Thống Diệm. Theo lời
khai của Thiếu Tá Nghĩa thì «số mạng của
Tổng Thống Diệm được quyết định bởi đa số tướng lãnh trong Ủy Ban Cách Mạng».
Theo ông xếp CIA William Colby thì: «Thật
quá rõ ràng chính Tướng Minh đã giết anh em Diệm-Nhu». Trái lại, theo lời
của một viên chức cao cấp CIA khác, ông George Carver thì hoài nghi: «Tôi không nghĩ là Tướng Minh quyết định một
mình, vì theo cái bản tính của ông, ông ta thích thảo luận và chia xẻ trách
nhiệm khi làm một quyết định quan trọng vì ông ta sợ đổ thừa sau này».
Nhưng cũng theo người khác kể thì chính Tướng Mai Hữu Xuân đã ra lệnh
giết.
Theo lời kể của ông CIA Conein thì khi ông ta rời Bộ Tổng Tham Mưu cũng
cùng lúc với xe thiết giáp đi đón ông Diệm. Báo chí được mời tới Bộ Chỉ Huy Đảo
Chánh (tức Bộ Tổng Tham Mưu). Về đến nhà, ông CIA Conein nhận lệnh của ông Phó
Trưởng Phòng CIA Smith đòi đi kiếm Tổng Thống Diệm.
CIA Lucien E. Conein chết ngày 3/6/1998
Khoảng 10 giờ 30 sáng, khi ông CIA
Conein trở lại Bộ Chỉ Huy, thì các tướng nói là anh em Diệm-Nhu đã tự tử trong
nhà thờ tại Chợ Lớn. Theo ông CIA Carver:”Cái việc cứng đầu tới giờ chót, tạo
nên những cái chết vô ích cho đôi bên, và làm bẽ mặt Tướng Minh trước binh sĩ, tức
anh em ông Diệm-Nhu đã ký vào một bản án tử hình”. Tướng Minh bảo ông CIA
Conein đến nhìn xác chết anh em ông Diệm-Nhu nhưng ông CIA Conein từ chối. Vì
với con mắt nhà nghề tình báo, ông CIA Conein rất dễ nhận ra là bị giết hay tự
tử, và điều biết đó sẽ rất là nguy hiểm.
Xác hai ông được mang tới bênh viện St.
Paul tại Sài Gòn để làm giấy khai tử, và được chôn tại một nghĩa trang dân sự
cách nhà Đại Sứ Lodge một block đường mà trên mộ không có bia tên gì cả. Trong
tờ giấy chứng tử thì lại đề ông Diệm là Thượng Thư thời Pháp thuộc chứ không
phải là Tổng Thống, và đề ông Nhu là Quản Thủ Thư Viện, một chức vụ cũ rồi.
Tại Hoa Thịnh Đốn thì các cố vấn cao
cấp của Tổng Thống Kennedy theo dõi sát nút cuộc đảo chánh từ lúc 1 giờ 30 sáng
ngày 01 tháng 11 khi được CRITIC báo cáo là có đảo chánh. Vì việc Đại Tá Thảo
kéo quân về Sài Gòn đảo chánh hụt trước kia làm cho Hoa Kỳ hơi bi quan về việc
đảo chánh. Sau khi nối trực tiếp đường dây với Tòa Đại Sứ Mỹ tại Việt Nam, Phụ
tá Tổng Thống Forrestal nói chuyện với Phó Đại sứ Trueheart. Ông Trueheart báo
cáo là «có ông CIA Conein túc trực bên bộ
chỉ huy đảo chánh, và đây là cuộc đảo chánh thật. Bây giờ không còn các báo cáo
hồi hộp nữa đâu». Nghe xong, ông Forrestal đánh thức Tổng Thống Kennedy và
họ cùng xuống phòng Situation Room để theo dõi suốt cuộc đảo chánh.
Tướng Taylor có mặt với Tổng Thống
Kennedy trong lúc đó đã ghi lại trong hồi ký như sau: «Khi nghe tin Tổng Thống Diệm bị giết, mặt mày Tổng Thống Kennedy tái
méc và run lập cập. Ông bước vội ra khỏi phòng với cái trạng thái hốt hoảng
chưa từng thấy. Trở lại phòng, Tổng Thống Kennedy nói với các phụ tá: ‘Tại sao
họ phải làm vậy? Tổng Thống Diệm đã chiến đấu khổ nhọc trong 9 năm trời chống
Cộng Sản, lẽ ra ông ta phải nhận được sự đền bù xứng đáng hơn là cái việc bị
giết chớ?!».
Ông xếp CIA Colby kể lại: «Tổng Thống Kennedy xúc động và buồn bã quá
chừng. Ông ta cảm thấy như mình dự phần nào trách nhiệm về việc này». Tổng
Thống Kennedy từng ủng hộ đảo chánh, rồi rút lui, rồi ủng hộ lại. Cố vấn đặc
biệt của Tổng Thống Kennedy là ông Arthur Schlesinger nói: «Việc giết Tổng Thống Diệm và ông Nhu không
nằm trong kế hoạch chúng tôi và chúng tôi cũng không mong điều đó. Vì nhiều lý
do mà các tướng đảo chánh đã giết hai ông.
Cái
chết của Tổng Thống Diệm làm Tổng Thống Kennedy buồn rầu bởi vì Tổng Thống
Kennedy là con người đạo đức, ông ta không muốn người khác bị giết, hơn nữa
người đó lại là vị nguyên thủ quốc gia. Tuy nhiên, một phần khác nữa là Tổng
Thống Kennedy sợ rằng cái chết của Tổng Thống Diệm sẽ lôi kéo thêm quân Mỹ vào
Việt Nam». Cũng theo Schlesinger thì vào
thời điểm đó có 16 ngàn cố vấn Mỹ tại Việt Nam, và có 75 lính Mỹ chết.
Mặc dù Tổng Thống Kennedy mất bình tĩnh,
nhưng các giới chức Mỹ thì bình thường. Quân đội và CIA thì luôn nhận thức rằng
có đảo chánh là có đổ máu chết chóc. Tướng Taylor sau này nói rằng: «Thực hiện một cuộc đảo chánh không phải
giống như một tiệc trà. Nó là một việc làm vô cùng nguy hiểm». Trước khi
đảo chánh, Phó Đại Sứ Mỹ Trueheart có gởi một điện văn cho Bộ Ngoại Giao khuyến
cáo rằng: «Thật nguy hiểm cho hai ông
Diệm-Nhu có thể bị tử hình vì các tướng đảo chánh sợ rằng hai ông sẽ tìm cách
trở về chiếm lại quyền». Còn ông Phụ Tá Ngoại Trưởng, Roger Hilsman, người
đồng tác giả bức điện văn «tối mật»
ngày 24 tháng 08 ủng hộ đảo chá nh, khi bị hỏi ông nghĩ gì khi bàn tay ông đang
dính đầy máu, thì ông Hilsman dững dưng, tỏ vẻ chính phủ Mỹ không quan tâm lắm
về cái chết của ông Diệm. Ông nói: «Cách
mạng thì ghê gớm lắm. Người ta phải chịu trả giá chết chóc mà».
Theo lời của ông Thiện, Bí Thư Báo Chí
của Tổng Thống Diệm nói là có phỏng vấn Tướng Kim, một tướng có thiện cảm với
Tổng Thống Diệm trước kia nhưng nay tại sao theo phe đảo chánh, thì Tướng Kim
trả lời: «Chính phủ Mỹ bảo chúng tôi chọn
giữa Tổng Thống Diệm và viện trợ của Mỹ. Chúng tôi không còn chọn lựa nào khác
hơn». Đang họp tại Pháp, vì quá mừng khi nghe được tin hai anh em Tổng
Thống Diệm bị giết, ông Nguyễn Hữu Thọ, Chủ Tịch Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam
của Cộng Sản reo lên: «Đây là một món quà
từ Trời cho chúng tôi»
Bào huynh Tổng Thống Diệm là Đức Giám
Mục Ngô Đình Thục và Bà Nhu đang ở nước ngoài khi đảo chánh. Vài ngày sau đảo
chánh, Tòa Đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn sắp đặt cho 3 đứa con của ông bà Ngô Đình Nhu ra
khỏi nước.
Ngày 02 tháng 11 quân đảo chánh vây nhà
ông Ngô Đình Cẩn, ông Cẩn chạy đến trốn trong một nhà thờ Công Giáo tại Huế. Các
Linh Mục đến Tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế xin tỵ nạn cho ông Cẩn nhưng không được, vì
theo luật quốc tế chỉ có Tòa Đại Sứ mới có quyền cho tỵ nạn mà thôi. Ông Lãnh
Sự John Helble hỏi lệnh Tòa Đại Sứ và Bộ Ngoại Giao. Bộ Ngoại Giao chỉ thị Lãnh
Sự Helble phải cho ông Cẩn tỵ nạn.
10 giờ 45 sáng, một mình ông Cẩn đến
trú ẩn tại Tòa Lãnh Sự Huế. Tướng Đỗ Cao Trí, Tư lệnh Sư Đoàn I đến Tòa Lãnh Sự
yêu cầu đừng chứa chấp ông Cẩn vì e dân chúng tràn vào không giữ an ninh nổi. Cùng
ngày, tòa Lãnh Sự Mỹ ở Huế yêu cầu tòa Đại Sứ Mỹ tại Sài Gòn di chuyển gấp ông
Cẩn.
Ông Lãnh Sự Helble kể:”Tôi được cho
biết là sẽ đưa anh em ông Diệm-Nhu ra khỏi nước”. Tháp tùng bởi một người sĩ
quan Mỹ, ông Cẩn lên máy bay đi vào Sài Gòn. Hạ cánh Tân Sơn Nhứt, thay vì gặp
một viên chức tòa Đại Sứ như đã hứa, nhưng ông CIA Conein đón bắt ngay ông Cẩn
và giao cho quân đảo chánh giam giữ. Trên lúc chiếc máy bay chở ông Cẩn đang
bay, thì Đại Sứ Lodge gọi về Hoa Thịnh Đốn báo tin là Tướng Đôn hứa sẽ cho ông
Cẩn được xử án một cách phân minh và công bằng, bởi vậy ông quyết định giao ông
Cẩn cho phe đảo chánh.
Ông CIA Conein kể là Đại Sứ Lodge dặn: «Tôi sắp xếp chuyến bay đặc biệt này và ông
phải giải giao người trên phi cơ này cho quân đảo chánh». Vào mùa Xuân 1964,
ông Cẩn bị ghép đủ thứ tội như: tội thủ tiêu, tổ chức ám sát, bắt người vô cớ, làm
thiệt hại kinh tế quốc gia mặc dù có lời xin ân xá của Đại Sứ Lodge. Ông Cẩn bị
xử bắn ngày 09 tháng 05 năm 1964, tức 1 năm 1 ngày sau ngày nổi dậy biểu tình
của Phật Giáo Huế.
Ngày 22 tháng 11 năm 1963. Tổng Thống
Kennedy bị ám sát chết tại thành phố Dallas, Texas, Phó Tổng Thống Lyndon B. Johnson
lên nhậm chức Tổng Thống Mỹ. Lúc còn là Phó Tổng Thống, ông Johnson từng qua
hội kiến với Tổng Thống Diệm vào tháng 05 năm 1961 để bàn việc đưa quân Mỹ tham
chiến Việt Nam. Vì cảm phục và nể trọng Tổng Thống Diệm, nên ông Johnson đã ca
ngợi rằng: «Thủ Tường Diệm là một
Churchill của Á Châu… Lịch sử xếp ông ta như là một trong những vĩ nhân của thế
kỷ 20».
Sau cuộc đảo chánh 1963, đất nước liên
tiếp trải qua bao cảnh chính biến và cuối cùng đưa cả một dân tộc vảo một thảm
họa đen tối nhất lịch sử là để miền Nam Việt Nam rơi vào tay bọn Cộng Sản vô
thần. Để rồi hôm nay đây, nơi đất khách quê người, chúng ta xót xa mang nỗi hờn
vong quốc, và ngậm ngùi tiếc nhớ những kỷ niệm, dĩ vãng xa xưa!! !
Ngô Kỷ
ngokyusa@yahoo. com
Vài Links tài liệu Hoa Kỳ liên quan đến Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm:
Tham khảo và dịch thuật từ các sách sau
đây:
- Lost Victory (William Colby)
- The Wound Within: America
in the Vietnam
Years, 1945-1974 (Alexader Kendrick)
- Kennedy in Vietnam :
American Vietnam
Policy 1960-63 (William J. Rust)
- Beyon Vietnam: The United
States and Asia (Edwin O.
Reischauer)
- Can We Win In Vietnam ? (FranK E. Armdruster, Raymond
D. Gastil, Herman Kahn, William Pfaff, Edmund Stillman)
- The Perfect War: The War We Coudn't Lose and How We
Did (James William Gibson)
- VIETNAM
An American Ordeal (George Donelson Moss)
- The Ten Thousand Day War VIETNAM : 1945-1975 (Michael Maclear)
- THE UNFINISHED WAR Vietnam and the American Conscience
(Walter H. Capps)
- The Vietnamese and Their Revolution (John T. McAlister,
Jr/Paul Mus)
- Why we were in Vietnam (Norman Podhoretz)
- America 's
Longest War THE UNITED STATES AND VIETNAM 1950-1975 (George C. Herring)
- In Retrospect THE TRAGEDY AND LESSONS OF VIETNAM (Robert
S. McNamara)
- THE VIETNAM
WAR Opposing Viewpoints (David L. Bender)
- The «Uncensored
War» THE MEDIA AND VIETNAM
(Daniel C. Hallin)
- Vietnam
Crisis (Stephen Pan, PH. D., -Daniel Lyons, S. J.)
No comments:
Post a Comment