Bác Cả Hà Đông
Vũ Thư Hiên
Lẽ thường,
không ai đưa bản thảo chưa hoàn chỉnh cho người khác đọc. Tôi phá lệ, để cảm ơn
các bạn qua những bình luận tỏ rõ mối quan tâm sự biến dạng của con người trong
môi trường sống. Note này là một khúc trong ghi chép CHUYỆN NHÀ.
Phố Nhà
Rượu là phố gia đình tôi ở lâu nhất. Từ nhà 27 Bis chúng tôi dọn tới nhà 65
cùng phố. Nó là ngôi nhà thứ ba trong cuộc sống không yên chỗ. Nó lớn hơn ngôi
nhà thứ hai, có nhiều phòng hơn. Gia đình đã lớn thêm với ba em tôi lần lượt ra
đời.
Thay vào
chị Nhài Hiên là chị Tường ở quê lên. Chị xấp xỉ tuổi cha mẹ tôi, gọi cha mẹ
tôi bằng cậu mợ xưng em, còn chúng tôi gọi chị bằng chị. Cách xưng hô này được
giữ mãi, vì sao lại như thế thì khi tôi về quê ở với bà chị cả của cha tôi là
cô Gái được cô dẫn tích tôi mới hiểu. Thì ra chị Tường là một đứa bé mới đẻ bị
mẹ vứt ở bụi tre đầu ngõ, ông nội tôi dậy sớm nghe tiếng trẻ khóc, mới lần ra
xem. Thương tình, ông bồng về cho bà nội nuôi. Chị lớn lên trong ngôi nhà gỗ
của ông bà tôi, trở thành người nhà. Cô Gái không giải thích vì sao chị không
được coi là con nuôi. Thấp, đậm người, cục mịch, mặt mũi xấu xí, lúc nào cũng
cau có, chúng tôi không yêu chị, vì không giống chị Nhài Hiên dịu dàng, chị
luôn quát nạt, bắt chúng tôi vào khuôn vào phép.
Tôi biết
bác Cả Hà Đông năm tôi lên mười.
Một hôm
cha tôi trở về, mặt đăm chiêu. Ông nói nhỏ với mẹ tôi: “Anh Sao Đỏ vượt ngục!”
- Anh ấy
hiện ở đâu? - mẹ tôi lo lắng.
- Đang đợi
xem sao. Tụi nó lùng dữ lắm. Treo giải thưởng một vạn đồng Đông Dương cho cái
đầu Sao Đỏ.
- Đã có
chỗ trốn cho anh ấy chưa?
- Mình
phải lo cho anh ấy thôi!
Mẹ tôi nói
không nên để Sao Đỏ ở nơi nào khác, mọi chỗ đều không an toàn, đều nguy hiểm,
tốt nhất là đưa về nhà mình. Đó mới là chỗ mật thám ít ngờ nhất - Nguyễn Lương
Bằng không thể mạo hiểm trốn ở nhà bạn tù vừa được tha.
Hôm sau
cha tôi mang về tờ Tin Mới với dòng nhắn tin trong mục Rao vặt: “Ông Cả Hà Đông
đang ở đâu, về ngay, cả nhà đợi ông”.
Về khuya
hai hôm sau, một người đàn ông gày còm, mặt quắt, vận áo the thâm, quần cháo
lòng, một tay cầm cái ô cụp, tay kia xách gói vải trong có một viên ngói tây,
gõ cửa vào nhà tôi.
Cha tôi hé
cửa cho ông vào nhà. Hai người ôm chầm lấy nhau, cười ra nước mắt.
Trước khi
vào nhà tôi, ông ngó nghiêng thấy bên trong cổng nhà số 67 bên cạnh có một đống
ngói xếp ngay ngắn, liền vờ vào hỏi mua, rồi xin một viên làm mẫu. Người đàn
ông lững thững bước ra tiếp ông nhà quê là ông Trần Trọng Kim, về sau làm thủ
tướng chính phủ khi Nhật hất cẳng Pháp, độc chiếm Đông Dương.
Năm 2003,
nhân trò chuyện với ông Bùi Diễm, cựu đại sứ Việt Nam Cộng hoà ở Hoa Kỳ, tôi
mới biết ông từng ở chính ngôi nhà số 65 của chúng tôi. Mới biết trong cuộc đời
không thiếu những tình cờ hi hữu.
Căn phòng
nhỏ của chị Tường được dành riêng cho ông. Ông ở yên trong đó, không bước ra
ngoài. Lũ trẻ chúng tôi cũng không được phép vào. Chúng tôi được bố mẹ dặn đi
dặn lại rằng nếu bất ngờ có ai hỏi thì nói rằng chỉ có người đến chơi tên là
Bác Cả Hà Đông. Chị Tường ngoan đạo đã được cha mẹ tôi huấn luyện để biết cách
bảo vệ cán bộ.
Bí danh
Ông Cả Hà Đông có từ ngày đó. Nếu nó có trước chắc cha tôi đã không dùng nó để
viết trong mục Rao Vặt.
Mẹ tôi bận
bịu suốt dưới bếp lo nấu nướng những món tẩm bổ cho bác Cả Hà Đông: chim câu
tần hạt sen, chân giò hầm thuốc bắc… mang vào tận giường cho ông. Chúng tôi
chưa bao giờ được biết đến những món ăn ngon như thế, trừ khi mẹ tôi nấu nhiều,
ông ăn không hết mới được nếm náp chút ít.
Bận bịu lo
kinh tế cho Đảng, cho các đồng chí đang trốn tránh, mẹ tôi mặc chị Tường lo cơm
nước. Tôi nhớ rất lâu món rau muống sống chấm bỗng rượu, Rau muống ăn sống
thường được chẻ nhỏ, chị Tường chỉ vặn cọng rau làm đôi làm ba rồi đập vào lòng
bàn tay cho dập. Bỗng rượu thì đi xin ở những lỗ thải của nhà máy – nó là đồ
cho lợn, muốn xin bao nhiêu cũng được.
Không kể
bác Lang Thanh, bác Cả Hà Đông là người thân nhất với cha mẹ tôi. Trong bảo
tàng nhà ngục Sơn La vẫn còn bức ảnh cha tôi và ông chụp chung. Trong ảnh, hai
người mặc quần áo trắng có in số tù. Thời Tây đô hộ, chế độ giam cầm xem ra thế
mà dễ dãi. Người tù được chụp ảnh kỷ niệm do một ông thợ ảnh ngoài phố được
phép vào trong nhà tù chụp cho họ.
Số phận
bức ảnh này khá long đong. Khi cha tôi bị bắt thì nó lập tức bị hạ xuống, bị
tiêu huỷ. Nghe nói rồi sau người ta vất vả mới tìm lại được để bổ sung vào số
hiện vật cho bảo tàng nhà tù.
Tôi thường
ngờ vực nhìn những đồ vật được trưng bày ở các bảo tàng, nhà lưu niệm - không
thể nào biết chúng là đồ thật hay đồ giả. Cây đào Tô Hiệu nổi tiếng trong các
hồi ký cách mạng được những người tù trong chuyến đi thăm lại chốn xưa có tôi
đi cùng nhận xét nó là một cây đào khác được trồng ở chỗ khác. Nếu là trí nhớ
của một người thì có thể nhầm. Nhưng đàng này các ông Đặng Kim Giang, Trần Huy
Liệu, Lưu Động và cha tôi là bạn tù của Tô Hiệu nhận xét thế thì rõ ràng người
ta đã bịa ra một hiện vật. Đến cái máy chữ Hermes Baby trong ảnh cụ Hồ làm việc
tại chiến khu Việt Bắc do Đinh Đăng Định chụp được trưng bày trong bảo tàng
cũng không phải chính nó. Cái máy chữ cũ ấy cha tôi xin cụ Hồ mang về cho tôi,
rồi một người bạn mượn không trả. Chắc người ta đã mua một cái Hermes Baby ở
chợ giời thay vào.
Chuyện
không tôn trọng cái thật, hồn nhiên làm cái giả, không phải chỉ trong lĩnh vực
bảo tàng. Ngành làm phim ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng rất thuần thục trong
việc chế tạo cảnh giả. Trong phim Việt Nam Chiến Đấu (tên Việt: Việt Nam Trên
Đường Thắng Lợi) nhiều cảnh của bậc thầy phim tài liệu Liên Xô Roman Karmen
quay là cảnh giả, bố trí để quay, chứ không phải cảnh thật được quay tại trận.
Cũng trong phim ấy, cảnh con hổ Việt Nam đi lại trong rừng, xuống suối uống
nước, chính tôi quay bằng máy Eymo 35 ly, cũng là cảnh giả. Người ta phải bẫy
con hổ rồi mang cái cũi lim nhốt nó tới một nơi rộng rãi được rào san sát bằng
tre gộc. Nói cho công bằng, phim này phải làm cấp tốc để hoàn thành vào năm
1954, những người làm phim không có cả thời gian lẫn thiết bị tốt như bây giờ
các nhà quay phim thế giới động vật có.
Kể từ năm
1954 khi tôn ti trật tự mới đã được thiết lập thì trong số bạn bè thời hoạt
động bí mật chỉ có bác Cả Hà Đông là người còn lui tới nhà tôi. Những người
thường xuyên tới, ăn ở trong nhà tôi, nay trở thành “lãnh tụ” thì biến mất như
bốc hơi.
Bác Cả Hà
Đông giàu tình cảm, sống xuề xoà, bình dân, là có thực, kể cả khi ông đã trở
thành quan lớn. Bác đến chơi là đến chơi, vậy thôi, hàn huyên với cha mẹ tôi,
thăm chúng tôi, những đứa cháu, chứ chẳng có mục đích nào khác.
Thế mà
việc bạn bè bình thường đến thăm nhau cũng bị công an theo dõi. Tôi không biết
họ theo dõi quan hệ giữa cha tôi và ông Nguyễn Lương Bằng từ khi nào. Đọc nhiều
hồi ký thì thấy ở nước cộng sản nào cũng vậy, sự theo dõi nhau giữa những người
trong đảng, đặc biệt giữa những người có địa vị trong nhóm cầm quyền, là chuyện
không hề lạ. Theo dõi và tố cáo được khuyến khích trong toàn xã hội trở thành
một thói thường. Sau khi chế độ cộng sản sụp đổ người dân Cộng hòa Dân chủ Đức
mới sững sờ trước những chồng hồ sơ con báo cáo cha mẹ, vợ báo cáo chồng, bè
bạn thân thiết báo cáo nhau… chất ngồn ngộn trong kho lưu trữ của cơ quan an
ninh STASI.
Những
người trong ban lãnh đạo đảng tất nhiên biết Nguyễn Lương Bằng thân với cha mẹ
tôi thế nào. Mà tính ngang ngạnh của cha tôi không phải là điều khó thấy. Những
câu nói như “Vớ vẩn, xưng vì nhân dân quên mình là ngoa ngôn, là bịp bợm. Chúa
Giê Su kêu gọi: “Hãy thương yêu người ta như mình vậy” hai nghìn năm rồi mà
loài người chưa theo được, làm gì có chuyện quên mình vì dân”. Hoặc “Dạy học
trò phải yêu nước vì nước ta giàu và đẹp là bậy. Thế nếu nước nghèo và xấu thì
không yêu nó à?” vv… được đưa vào hồ sơ theo dõi, một người bạn công an tiết lộ
cho tôi biết. Theo dõi bình thường đã có từ trước, chỉ từ khi có sự rạn nứt
trong đảng về quan điểm cách mạng bạo lực và cách mạng hoà bình thì sự theo dõi
ấy mới được đặc biệt tăng cường mà thôi.
Ở Hỏa Lò
Hà Nội, Huỳnh Ngự, cục phó Cục Chấp pháp, tra hỏi tôi rất nhiều về Nguyễn Lương
Bằng, y vặn vẹo đủ đường, không tin bất cứ câu trả lời nào của tôi. Cứ như thể
ông cũng là một nghi can trong vụ án. Trong khi đó thì ở bên ngoài Hỏa Lò
Nguyễn Lương Bằng vẫn đường đường là Chủ nhiệm Ban kiểm tra Trung ương Đảng,
người cầm thanh kiếm bảo vệ đảng.
Thời gian
tôi học ở Moskva, ông Nguyễn Lương Bằng là đại sứ đặc mệnh toàn quyền tại Liên
Xô. Thỉnh thoảng ông gọi tôi đến ăn cơm với ông.
Một hôm
đang ăn ông bảo tôi:
- Bác nói
điều này, cháu nhớ lấy nhá: “Đàn bà một người thì đoàn kết, hai người thì chia
rẽ. Đừng có quên”!
Ông đang
buồn phiền vì cuộc cãi vã giữa vợ ông, cũng là một nhân viên sứ quán, với mấy
bà khác cùng cơ quan. Nhớ lại câu nói của ông, tôi cứ buồn cười mãi. Có những
tình tiết không quan trọng chút nào nhưng chúng lại đọng rất lâu trong trí nhớ.
Tôi rất
yêu bác Cả Hà Đông những ngày ấy.
Nhưng tôi
đã mất ông, ông bác tôi từng yêu quý.
Vào năm tù
thứ ba hay thứ tư tôi không nhớ, tôi phải rất vất vả mới viết được một bức thư
để gửi ông. Trong những nhà tù tôi trải qua, người bị giam không có quyền được
đọc, thậm chí một mảnh giấy báo bọc đồ tiếp tế cũng bị lột ra, đừng nói tới
viết. Tôi phải lấy nhựa thuốc lào đọng trong cái điếu tự tạo làm mực, lấy cật
bương làm bút để viết trên mặt sau vỏ bao thuốc lá.
Tôi viết
thế này:
"Thưa
bác. Cháu đề nghị bác, với tư cách người cầm thanh kiếm bảo vệ sự trong sáng
của Đảng, tự mình xem xét vụ án này. Cháu là đứa cháu được bác và bố mẹ giáo
dục tinh thần trung thành với sự nghiệp cách mạng. Nếu sau khi kiểm tra bác
thấy cháu phản cách mạng thật thì cứ mang ra bắn, nhưng nếu không phải là như
thế thì bác phải đưa bọn lạm dụng chức quyền đàn áp những người cách mạng trung
thực ra xử. "
Không còn
tin gì nữa, không còn trông đợi gì nữa ở cái đảng cộng sản đã bỏ tôi vào tù,
tôi hằng tin vẫn còn đâu đó những người đã từng chịu đựng gian nan, tù ngục cho
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc sẽ không chịu cúi đầu làm tay sai cho những
tên cơ hội tiếm quyền.
Tôi lầm.
Như cách người ta thường nói: tôi ngu lâu.
Bức thư đã
được bí mật chuyển ra ngoài nhân một lần tôi được gặp gia đình. Tôi bế con gái
lớn lên, nhân lúc mấy người công an giám sát không để ý, tôi nhét nó vào túi áo
của con. My Lan khi ấy mới lên bảy, nhưng sáng dạ, biết tôi vội vã nhét vào đấy
một cái gì đó, nhưng không rút ra hỏi bố, mà tảng lờ như không có chuyện gì.
Mẹ tôi đã
tới gặp Nguyễn Lương Bằng, đưa bức thư ấy cho ông . Ông lẳng lặng đọc, rồi lảng
sang chuyện khác. Nhìn thái độ nhớn nhác của ông, mẹ tôi hiểu: ông sợ những con
“rệp” được gài trong phòng khách. Khi tiễn mẹ tôi ra cổng, ông mới dám ghé vào
tai mẹ tôi thì thào: “Chị ơi, tập thể đã quyết định, tôi đau lòng lắm, nhưng
không làm gì được”.
Nguyễn
Lương Bằng không làm gì được là phải. Được Lê Duẩn và Lê Đức Thọ cho vào Ban
Chuyên án vụ trấn áp, ông ký cả hai tay. Không thể biện lẽ tổ chức phân công
thì ông phải theo. Có chân trong Ban Chuyên án ông trở thành người đi bắt để
được bảo đảm không bị bắt. Nếu ông muốn bảo vệ những đồng chí cùng hoạt động
với mình trong thời kỳ bí mật thì ai cấm được ông nói tiếng nói của mình. Là
đảng viên, ông vẫn có quyền có ý kiến với công việc được giao. Chưa kể cái
quyền lớn nhất mà người đảng viên nào cũng có là thôi không làm đảng viên nữa.
Trong chuyện này ông không vô can. Là thành viên Ban Chuyên án, chính ông cũng
là một trong những kẻ tống tôi vào tù.
Khi cuộc
trấn áp nổ ra, tuân lệnh Lê Đức Thọ ông còn gửi cho cha tôi trong xà lim cấm cố
viết một bức thư sặc mùi cán bộ chấp pháp. May mà nay còn có văn bản, có muốn
chối cũng không được. Ông viết:
“Trước
đây, khi biết anh có quan điểm bất đồng với Đảng, tôi đã lấy tình đồng chí và
tình đảng viên để khuyên can, nhưng vì một lẽ nào đó, những lời chí tình của
tôi không được anh chấp nhận. Trái lại, những tư tưởng và hành động của anh
ngày càng đi sâu vào con đường đầy tội lỗi đối với Đảng”.
Tất nhiên,
đọc mấy dòng trong bức thư đánh máy đó ắt cha tôi hiểu không phải chính Nguyễn
Lương Bằng viết. Hai người cùng hoạt động với nhau nhiều năm, ông thừa biết
trình độ học vấn của bạn mình. Nó hoàn toàn không giống với cách viết của con
người ít học Nguyễn Lương Bằng. Người ta viết, bảo ông ký thì ông nhắm mắt ký.
Dù sao mặc
lòng, ông đã đọc, đã ký, chữ ký của ông dưới bức thư là thực. Nó xác nhận một
ông Cả Hà Đông thực trong những ngày ấy.
Kẻ tạo ra
chế độ mới bị chính cái sản phẩm nó tạo ra nhào nặn thành cái mà chế độ ấy
muốn.
Khi Nguyễn
Lương Bằng vượt ngục Sơn La năm 1943, ông được một thanh niên người Thái trắng
dẫn đường. Trở về nhà anh bị Pháp bắt đem chặt đầu. Tôi đã tới bản Giảng, cách
nhà tù Sơn La vài cây số, vào mùa thu năm 1965 thăm gia đình anh thanh niên nọ.
Trong ngôi nhà sàn xiêu vẹo chỉ còn lại mẹ anh, một bà lão lẩm cẩm, điếc lác,
hỏi năm câu mới trả lời được một, câu trả lời lại chẳng ăn nhập gì với câu hỏi.
Sau hai
mươi hai năm, tính đến chuyến đi của tôi, người tù vượt ngục dẫn tới cái chết
của người thanh niên nọ đã không một lần trở lại bản Giảng để thăm hỏi bà lão
tội nghiệp.
Rõ ràng,
ông là, hoặc đã trở thành, người không có ân nghĩa. Người đem cả sinh mạng mình
giúp ông mà ông còn quên, nói chi đến đồng chí.
Vô ơn là
một thói thường của những người cách mạng khi xong việc. Chẳng cứ Nguyễn Lương
Bằng, Trường Chinh được cha tôi dẫn đi giấu ở nhà bạn là ông Trần Văn Vần ở
Phúc Yên để trốn cuộc tổng khủng bố 1939, ở đấy gần hai năm, được nuôi nấng,
được bảo vệ chu đáo, nhưng khi cách mạng thành công ông ta không đến thăm ân
nhân của mình lấy một lần. Khi ông Vần đến thăm Trường Chinh, ông ta ban cho
ông Vần một gói kẹo.
Người ta
coi sự đóng góp của nhân dân, kể cả những việc nguy hiểm đến tính mạng, là việc
đương nhiên.
Bây giờ
thì ai cũng biết chính quyền cách mạng đối xử với ông bà Trịnh Văn Bô, người đã
hiến nhà cửa, tài sản cho cách mạng như thế nào, đến cả ngôi nhà thờ tự cũng
chiếm lấy không muốn trả. Hoặc với ông bà Đỗ Đình Thiện hiến cả đồn điền Cố
Nghĩa ở Phủ Lý (đồn điền Borel), nơi chính phủ kháng chiến lấy làm nơi trú chân
đầu tiên khi rời khỏi Hà Nội, nơi đặt nhà in giấy bạc đầu tiên cho nền tài
chính non trẻ, cũng thế. Sau khi về tiếp quản Hà Nội, có ngôi nhà lớn bên hồ
Thiền Quang người ta cũng chỉ cho gia đình ông bà ở tầng dưới, tầng trên thì
cấp cho báo Ảnh Việt Nam. Tôi làm việc trong tờ báo ấy, tôi biết gia đình ông
bà Thiện phải ở tầng dưới ẩm thấp ra sao.
Bệnh
“diễn” cũng vậy. Nhà cầm quyền luôn miệng nói về cái gọi là lập trường công
nông, cứ như thể họ chiến đấu vì quyền lợi công nông. Trong thời kỳ hoạt động
bí mật, mẹ tôi sát cánh cùng ông và bà Điền, vợ ông Dỗ Đình Thiện, làm công tác
kinh tài cho đảng, Nguyễn Lương Bằng thừa biết chị Tường là người ở trong gia
đình tôi, đã được cha mẹ tôi giác ngộ để bảo vệ cán bộ. Thế nhưng trong lần đầu
tiên có cuộc diễu binh ở Hà Nội vừa được tiếp quản, Nguyễn Lương Bằng sai người
đánh ô tô đến nhà tôi để đón chị Tường đến lễ đài, còn mẹ tôi, người làm việc
cùng với ông, người huấn luyện chị Tường thì ra hè đứng ngó đoàn quân cuối cùng
của cuộc diễu binh đi qua nhà.
Lẽ ra,
ngay từ đó tôi đã phải biết Nguyễn Lương Bằng đã trở thành người thế nào. Khi
cả hai cha con người bạn thân thiết của mình bị tống ngục, ông thừa biết họ
không có tội, nhưng ông đã không hề động ngón tay út để can thiệp, đã thế còn
hùa theo mấy tên lãnh tụ độc tài.
Hiểu được
con người thật không dễ.
Cha tôi
quý Nguyễn Lương Bằng vì cùng tù với nhau, ông biết bạn mình là người cách mạng
kiên định, không gì có thể lay chuyển. Ông cũng quý bạn ở chỗ là người trong
sạch, rất liêm khiết, ngay cả khi nắm quyền lực. Trong hoạt động bí mật, ông
cũng tiết kiệm từng xu cho quỹ đảng. Có lần cha tôi phát bực, to tiếng với ông,
bắt ông phải xé ngay những trang sổ tay ghi tỉ mỉ những chi tiêu cho công việc,
từng xu tiền đò, từng hào tiền trọ:
- Ông mà
bị bắt với những ghi chép này thì Tây nó biết hết ông đi đâu, liên lạc với ai.
Dở hơi vừa vừa chứ!
Đức liêm
chính của ông còn ảnh hưởng đến vợ con. Khi ông qua đời, vợ ông trả ngay biệt
thự ông được cấp, chỉ xin có một chỗ ở vừa đủ cho gia đình.
Sau sáu
năm bị giam, khi được thả cha tôi còn phải chịu biệt xứ ở Nam Định hai năm nữa
rồi mới được trở về nhà mình ở Hà Nội. Nhân dịp ấy ông Nguyễn Lương Bằng có đến
thăm, ấp úng nói lời xin lỗi. Cha tôi phẩy tay: “Chuyện qua rồi, tôi không để
bụng. Anh cũng không phải là kẻ gây ra tội”.
Từ nhà tù trở
về, tôi viết thư cho ông "Chuyện của cháu hãy để đấy cho lịch sử. Nhưng
nỗi oan của dân thì cần giải quyết ngay. Cháu đề nghị bác hãy tới các nhà tù để
nghe họ kêu oan. Cháu tình nguyện làm người dẫn đường cho bác... "
Bức thư
không có hồi âm.
Trong lần
cuối gặp ông khi ông tới nhà, tôi còn cố vật nài:
- Cháu qua
bốn nhà tù trong chín năm, được biết rất nhiều chuyện. Oan ức nhiều lắm, bác
ơi! Không phải chỉ ở trong nhà tù có những người bị oan, ở mọi nơi đều có những
nỗi oan không được giải. Thôi thì chuyện dân để sau, từ từ làm. Nhưng những
người tù oan đã nhiều năm thì khổ sở lắm. Bác nghe cháu, bác hãy đến để giải
quyết cho họ. Khi nào có thời giờ đến với dân, bác đừng đi ô tô nhà nước để đến
với dân bác cứ đi với cháu như ngày xưa bác hoạt động bí mật ấy, cháu sẽ chở
bác đi bằng xe máy, cháu lái vững, bác yên tâm, bác sẽ thấy cháu không nói sai
đâu.
Đáp lại,
ông cũng im lặng.
Tôi hiểu,
ông không nói vì ông không thể làm. Ông không đủ can đảm đối mặt với những gì
mà cuộc cách mạng thế hệ ông làm ra đã mang lại cho nhân dân, cho đất nước. Ông
không phải không biết, nhưng ông sợ sự đối mặt ấy. Nghĩ được thế còn là tốt.
Tôi cho rằng ông còn sợ cái khác, cái lớn hơn, cái ông chắc chắn sẽ nhận được
nếu dám làm trái ý bề trên. Ông biết những người cầm lái bộ máy cai trị là
người thế nào.
Nguyễn
Lương Bằng được ngành tuyên truyền tung hô như một Bao Công. Tôi nhìn rõ ông –
ông đã trút bỏ sạch sành sanh tinh thần của người chiến sĩ cách mạng. Ông hài
lòng sắm vai một Bao công giả. Bộ cánh quan lớn chẳng những vừa vặn mà còn hoàn
toàn dễ chịu với ông. Nó không đòi ông phải dũng cảm chống lại cái xấu, cái ác,
để trốn tránh hậu quả của sự dũng cảm ấy.
Ông đã học
được cách tồn tại trong chế độ mới.
Tiếc thay!
Một con người tốt như thế mà đã đọa ra như thế.
Năm 1835, trong
vở kịch Cái Chết Của Danton, nhà văn người Đức Georg Buchner viết: “Cách mạng
như sao Thổ, nó ăn thịt những đứa con của mình”. Câu này, như một lời tiên tri,
được trích dẫn nhiều. Khởi đầu, mọi cuộc cách mạng đều hứa hẹn một ngày mai
tươi sáng. Nó biến chất khi một thiểu số cơ hội lợi dụng thắng lợi của cách
mạng chiếm lấy đỉnh cao quyền lực. Thiểu số này tự cho mình là “duy nhất đúng
đắn và vô cùng sáng suốt”, tiêu diệt không nương tay mọi bạn đồng hành không
chịu điều hoà với cách quản trị xã hội độc tài (hay chuyên chính cùng một
nghĩa). Số còn lại bị biến thành (hoặc tự nguyện biến thành) tay sai trung
thành để được quyền tự do đè nén và cướp bóc nhân dân. Số khác thì cúi đầu tuân
theo chỉ để được tồn tại bên ngoài những nhà tù.
Năm 1979,
Nguyễn Lương Bằng qua đời.
Buổi sáng,
cha tôi gọi tôi:
- Hôm nay
đưa tang bác Cả. Con mặc quần áo rồi chở bố đi tiễn bác.
Cùng với
tuổi già và bệnh tật mang về từ những nhà tù, cha tôi yếu đi rất nhiều. Đến xe
đạp ông cũng không đi được, ngồi được lên yên là ngã. Khi ông muốn đi đâu tôi
phải chở ông bằng xe máy.
Tôi nhìn
vào mắt bố:
- Con là
đứa con luôn vâng lời bố, bố biết. Nhưng lần này thì con xin không nghe.
Tôi biết
tôi hẹp hòi, tôi không có được đức độ lượng của cha tôi. Nhưng tôi phải cho cha
tôi biết thái độ của mình.
Phải cố
gắng lắm tôi mới nói được điều biết trước sẽ làm ông đau lòng:
- Con sẽ
bỏ cả ngày để tiễn chân một người anh hùng. Nhưng con sẽ không bỏ một phút để
đưa ma một thằng hèn.
Cha tôi im
lặng.
Rồi thở
dài.
Vũ Thư
Hiên
No comments:
Post a Comment