Những Bật Mí
Liên Quan Đến Việt Nam Cộng Hòa Sụp Đổ (Trần Trung Chính)
April 29, 2021
Tướng Mỹ Mac Arthur, một thời oanh liệt.
Hàng năm mỗi độ tháng tư
về, người Việt Hải Ngoại lại nhớ đến những đau buồn, những uất hận và luôn nhớ đến
những nhục nhằn mà con dân Việt đã phải cam chịu. Suốt 46 năm qua, hầu như những
tâm sự, những chứng kiến mất mát, những tham dự bi hùng của các quân nhân các cấp
của tất cả các quân binh chủng…đã được trình bày. Tuy nhiên những nhân vật trọng
yếu đã từng nắm giữ những vị trí tối thượng của VNCH khi ra đến hải ngoại thì
không ai hé lộ bất cứ điều khoản nào dù chỉ là biện minh hay bào chữa cho chính
mình. Những nhân vật then chốt như Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu, Đại Tướng Trần
Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đồng Văn Khuyên, Đại Tướng Dương
Văn Minh, Thủ Tướng Vũ Văn Mẫu…hầu hết đã qua đời một cách lặng lẽ mà không hề
có hồi ký hay ghi chép một biến cố trọng đại của lịch sử Việt Nam đương đại.
Ghi chú : hiện nay chỉ
có Đại Tướng Trần Thiện Khiêm (1926) sống tại San Diego và Thiếu Tướng Nguyễn
Khắc Bình (1930) sống tại San José, khổ nỗi 2 ông tướng này cũng không nói,
không viết nhật ký cũng như không viết hồi ký… cho nên những «bật mí» mà người viết nêu ra trong bài viết này đa số do luận suy
theo các diễn biến lịch sử có thật đã xảy ra. Người viết không sử dụng các tài
liệu của bên phía VC dù tác giả những tài liệu này là các «danh nhân» của bên thắng cuộc, đơn giản vì người viết không tin vào
những «sự kiện» mà họ nêu ra cũng như
biết chắc chắn sự diễn giải của phe thắng cuộc toàn là «phịa sử».
Bật Mí là cặp chữ nói
lái của Bí Mật, đồng thời cũng có nghĩa «hé mở» những bí mật, vì hé mở
chứ không phải mở rộng toác ra nên độc giả tự suy diễn các biến cố lịch sử này,
chớ người viết không thể có tài liệu bằng văn bản hay vi film để đối chứng.
Bật mí thứ nhất: quân đội Pháp do tướng Leclerc cầm đầu theo chân quân đội
Anh - Ấn vào Sàigòn năm 1945 có thực sự là chiếm lại thuộc địa Đông Dương như
Việt Minh thường rêu rao ? Cuối thế chiến thứ II, các lãnh tụ các đại cường họp
nhau tại Cairo, Teheran và Yalta để phân chia thế giới là Roosevelt (Hoa Kỳ),
Stalin (Liên Sô), Churchill (Anh Quốc), Tưởng Giới Thạch (Trung Hoa Dân Quốc).
Nước Pháp chính phủ Vichy thân Đức nên không được coi là Đồng Minh, Tướng
Charles de Gaulle cầm đầu phong trào Pháp Tự Do không được xem là đại diện của
nước Pháp vì không có lãnh thổ. Hội nghị ở Postdam quy định quân đội Anh giải
giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 xuống phía Nam, quân đội Trung Hoa Quốc Gia sẽ
giải giới quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở ra.
Tình báo Anh- Pháp biết
chắc Hồ chí Minh là cán bộ Cộng Sản (có hồ sơ lưu trữ) và quân đội Anh- Ấn sẽ
rút về nước sau khi hoàn tất việc giải giới, nên chính phủ Anh lo ngại Hồ chí
Minh sẽ tung cán bộ Cộng Sản sang các thuộc địa của Anh, do đó chính phủ Anh đồng
ý cho quân đội Pháp vào Sàigòn (trước là Thủ Tướng Churchill của Đảng Bảo Thủ,
sau đó là Thủ Tướng Atlee của Đảng Lao Động) : cuộc đối đầu chắc chắn sẽ xảy ra
khiến Hồ chí Minh không thể tung cán bộ Cộng Sản qua Thái Lan và Malaysia được.
Bật mí thứ hai : các chính trị gia Việt Nam thời 1945 không biết một chút
gì về tình hình thế giới, Hoa Kỳ do Tổng Thống Truman đặt mục tiêu chính là ngăn
chận «xích hóa toàn cầu» của Liên Sô (do Stalin
lãnh đạo). Chứng cớ là từ năm 1947, chính phủ Hoa Kỳ và tình báo của Hoa Kỳ đã đánh
bại Đảng Cộng Sản Hy Lạp và Đảng Cộng Sản Thổ Nhĩ Kỳ . Ba ngày trước khi đại diện
Nhật ký văn kiện đầu hàng trên chiến hạm Missouri, Liên Sô tuyên chiến với Nhật
Bản với 2 mục tiêu : giải giới một triệu quân Quan Đông của Nhật đóng tại Mãn
Châu đồng thời tịch thu vũ khí đạn dược và lương thực của đạo quân này để chuyển
giao cho Mao Trạch Động. Ngay sau khi tuyên chiến, quân đội Liên Sô ?? ồ ạt tiến
vào Triều Tiên và chỉ ngưng lại tại vĩ tuyến 38 khi quân đội Mỹ từ phía nam đi
lên phía Bắc. Giải giới xong quân đội Mỹ trao quyền cho chính phủ Lý Thừa Vãn
và chỉ lưu lại một số đơn vị tượng trưng. Trong khi đó, Kim Nhật Thành tuyển mộ
binh lính được Liên Sô huấn luyện, tổ chức và trang bị vũ khí thành các đại đơn
vị. Năm 1949, Tưởng Giới Thạch phải chạy ra Đài Loan, và Mao Trạch Đông kiểm
soát hoàn toàn lục địa Trung Hoa.
Bật mí thứ ba : năm 1950 Kim Nhật Thành thừa cơ chính phủ Lý Thừa Vãn
còn non yếu (không có quân đội Mỹ hiện diện tại Nam Hàn) nên xua quân xâm chiếm
Nam Hàn. Chính phủ Nam Hàn phải bỏ chạy, chỉ còn 10 km là ra tới biển để vượt
biển sang Nhật tỵ nạn. Điều mà Kim Nhật Thành không thể ngờ là Đại Tướng Mac
Arthur từ Nhật Bản đã đem Hải , Lục , Không Quân đổ bộ Inchon đánh tan 130,000
quân Bắc Hàn , bắt giữ hơn 70,000 tù binh và quân đội Mỹ đã rượt đuổi quân Bắc
Hàn tới tận sông Áp Lục (ranh giới thiên nhiên giữa Trung Hoa và Triều Tiên).
Kim Nhật Thành không hề biết rằng Đại Tướng Mac Arthur không phải là Tư Lệnh
Quân Đội Hoa Kỳ mà Tướng Mac Arthur là Toàn Quyền tại Nhật Bản và Triều Tiên
(xin xem phương cách hành xử của Tướng Mac Arthur tại Nhật Bản). Rồi Mao Trạch Đông
buộc phải đem 01 triệu chí nguyện quân do Nguyên Soái Bành Đức Hoài sang Triều
Tiên cứu viện. Tướng Mac Arthur bị Tổng Thống Truman cách chức vì Tổng Thống
Truman không muốn Hoa Kỳ sa lầy trong cuộc chiến với Trung Hoa, khiến Hoa Kỳ sẽ
bị mất Tây Âu vào tay Liên Sô. Cuộc chiến tranh phải ngưng lại tại vĩ tuyến 38
là phù hợp với thực tế hồi 1945 khi quân đội Hoa Kỳ bắt tay với quân đội Liên
Sô như hôi nghị Postdam quy định.
Thỏa ước đình chiến được
ký tại Bàn Môn Điếm giữa 3 tư lệnh chiến trường của Hoa Kỳ - Trung Cộng và Bắc
Hàn vì Trung Cộng và Bắc Hàn chưa phải là quốc gia (không có quốc gia nào công
nhận và cũng không phải là hội viên của Liên Hiệp Quốc).
Bật mí thứ tư : trong trận chiến Triều Tiên, chính phủ Hoa Kỳ yêu cầu Hội
Đồng Bảo An họp khẩn cấp để đem quân đội Liên Hiệp Quốc đến Triều Tiên nhằm ngăn
chận quân xâm lược Trung Cộng và Bắc Hàn. Ngoại Trưởng Molotov ra lệnh cho Đại
Sứ Liên Sô tại Hội Đồng Bảo An vắng mặt vì Liên Sô không thể bênh vực cho 2 thực
thể Trung Cộng và Bắc Hàn là 2 thực thể chưa được công nhận là 2 quốc gia và cũng
chưa phải là hội viên của LHQ. Quân số của các quốc gia tham chiến là 280,000
người, Hoa Kỳ chiếm 250,000 người nên Tướng Mac Arthur kiêm nhiệm luôn Tư Lệnh
quân Liên Hiệp Quốc. Nước Pháp dù đang bị kẹt khi quân Việt Minh tấn công vùng
biên giới Hoa Việt cũng gửi 2 tiểu đoàn Lê Dương đi Triều Tiên, điều đó chứng tỏ
rằng nước Pháp tham chiến cùng Hoa Kỳ tại chiến trường Triều Tiên là để ngăn chận
sự xâm lăng của Cộng Sản.
Bật mí thứ năm : Khi Thống Tướng De Lattre De Tassigni đi Hoa Kỳ cầu viện
với Tổng Thống Eisenhower, những thực tế đã được bàn thảo giữa 2 vị tướng nhưng
không thấy ghi lại trong văn bản chính thức :
5.1 Nước Pháp không có
khả năng chiến thắng quân cộng sản Việt Minh , thí dụ : người Pháp thiếu lính
nên phải lấy lính từ các thuộc địa như Maroc, Algerie, Tunisie, Trung Phi,
Sénégal..Nước Pháp cũng không có đủ vũ khí quân trang quân dụng…Khả năng kinh tế
hạn hẹp nên không đủ sức chi trả cho trận chiến kéo dài tại Đông Dương.
5.2 Nước Pháp và quân đội
Pháp hiển nhiên là phải rút lui khỏi Đông Dương vì không đủ khả năng và ý chí.
5.3 Chiến lược chung của
Hoa Kỳ và Pháp là ngăn chặn be bờ quân cộng sản Trung Cộng và Việt Minh nên
thay vì quân đội Pháp đơn phương rút lui, Hoa Kỳ sẽ viện trợ quân trang , quân
dụng , nhiên liệu vũ khí đạn dược…cho quân đội Pháp với mục đích Hoa Kỳ mượn
tay quân đội Pháp đánh tan tác quân Việt Minh nhằm sau khi ngưng chiến, quân đội
Việt Minh không đủ sức chiếm toàn thế nước Việt Nam
5.4 Sau khi Thống Tướng
De Lattre De Tassigni trở lại Đông Dương (thời gian ngắn sau đó ông phải trở về
Pháp trị bệnh ung thư rồi chết bên Pháp), Hoa Kỳ đã cử Đại Tá Landsdale sang Việt
Nam : ông này chỉ tiếp xúc với các chính trị gia miền Nam và các chỉ huy quân sự
của các lực lượng giáo phái trong khi không có tiếp xúc với các thủ lãnh các đảng
phái chính trị tại miền Trung và miền Bắc. Như vậy, chắc chắn Hoa Kỳ sẽ ủng hộ
và yểm trợ cho lực lượng chính trị và quân sự tại miền Nam. Điều đó cũng phù hợp
với thực tế mà hội nghị Postdam đã qui định hồi tháng 5/1945 : Trung Cộng thay
thế Trung Hoa Dân Quốc cai quản vùng đất từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, Hoa Kỳ thay
thế Anh Quốc cai quản vùng đất từ vĩ tuyến 16 trở về phía Nam.
5.5 Về mặt biểu kiến,
khi căn cứ Điện Biên Phủ thất thủ,binh đội Pháp tử trận khoảng 8,000 người, tướng
De Castries bị bắt làm tù binh, rồi nước Pháp phải ký Hiệp Định Geneve 1954 và
rút toàn bộ các lực lượng vũ trang ra khỏi Đông Dương, nhưng nước Pháp chưa
thua hoàn toàn vì Hoa Kỳ viện trợ cho nước Pháp qua kế hoạch Marshall tái thiết
Âu Châu, chả thế mà 6 năm sau (1960) nước Pháp phục hồi kinh tế nhanh chóng và
trở thành một trong Tứ Cường của thế giới (Hoa Kỳ, Liên Sô, Anh ,Pháp). Việt Cộng
đáng lẽ chiếm được toàn thể nước Việt Nam nhưng Hiệp Định Genève quy định
VNDCCH chỉ có lãnh địa từ vĩ tuyến 17 trở về phía Bắc mà thôi.
Bật mí thứ sáu : tình hình chiến sự năm 1964 và 1965 tuy sôi động nhưng
chưa quá nguy hiểm để Hoa Kỳ phải đem ½ số quân vào Việt Nam (Hoa Kỳ có khoảng
01 triệu quân, mà Tổng Thống Johnson đem qua Việt Nam tới 550,000 người). Tại
sao ? Quân đội Indonesia bị Cộng Sản xâm nhập rất nhiều, chính Trung Cộng mưu
toan đảo chánh cướp chính quyền tại Indosesia , Hoa Kỳ đổ quân vào Việt Nam để
dự phòng nếu quân Cộng Sản dành được chính quyền ở Indonesia. Tuy nhiên , tình
báo Hoa Kỳ đã giúp Tướng Suharto đảo ngược tình thế, kết quả : toàn thể các sĩ
quan đảng viên Đảng Cộng Sản Indonesia tham dự đảo chánh bị binh sĩ của Tướng
Suharto xử bắn ngay tại chỗ rồi sau đó tất cả các đảng viên Đảng Cộng Sản
Indonesia từ Tổng Bí Thư Aidit xuống tới đảng bộ xã ấp đều bị giết hàng loạt hơn
½ triệu người bị giết trong tuần lễ đầu tiên)
Tổng thống Nguyễn Văn
Thiệu, người đã đi rồi
Bật mí thứ bảy : giải quyết xong tình hình chính trị tại Indonesia mà
không cần phải xuất quân, chính phủ Hoa Kỳ phải tìm cách rút quân về nước. Tình
báo Hoa Kỳ dàn dựng kịch bản Tết Mậu Thân 1968 rồi cho phóng viên cánh tả thổi
phồng lên kêu gào phản chiến để có lý do chính đáng rút quân về nước. Chính phủ
và tình báo của VNCH có biết kịch bản Tết Mậu Thân 1968 không ? Có, ít nhất Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu, Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ và Tướng Nguyễn Ngọc Loan
là biết rõ, chứng cớ số 1: Tổng Thống Thiệu lánh mặt trong ngày mùng Một Tết lấy
cớ là về Mỹ Tho thăm gia đình bên vợ. Chứng cớ số 2 : trước giờ đặc công VC tấn
công Tòa Đại Sứ Mỹ trên đường Thống Nhất, đích thân Tướng Nguyễn Ngọc Loan ra lệnh
cho trung đội CSDC canh gác bên ngoài Tòa Đại Sứ Mỹ rút lui về Ty Cảnh Sát quận
nhất (cách Tòa Đại Sứ khoảng 200 mét). Thiếu Tá Nguyễn Hữu Hải – Khối CSĐB hỏi
tướng Loan tại sao ?
Tướng Nguyễn Ngọc Loan
cho biết : «bọn họ đang đóng kịch với nhau, lính mình ở đó chết oan mạng
không có ích lợi gì mà còn có thể bị khiển trách vì đặc công VC xâm nhập vào
Tòa Đại Sứ không được». Sau năm 1993, tôi có gặp Trung Tá Nguyễn Hữu Hải ở
Anaheim được biết thêm : tất cả các đặc công VC xâm nhập Tòa Đại Sứ Mỹ đều bị bắn
hạ chết tại khuôn viên và trong building của Tòa Đại Sứ, ngoại trừ tên cầm đầu
còn sống sót, nhưng người Mỹ đem tên này đi mất biệt, Cảnh Sát của ta không biết
gì hơn.
Chứng cớ số 3 : năm
1967, dưới thời chính phủ của Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ,
Luật sư Đinh Trịnh Chính - Ủy Viên Thông Tin được lệnh tiếp xúc với bà Nguyễn
Thị Bình đại diện của MTGP để mưu tìm giải pháp chính trị cho cuộc chiến. Cuộc
tiếp xúc thất bại vì BV chỉ muốn nói chuyện «tay đôi» với Hoa Kỳ. Sau khi bầu
cử Tổng Thống và Phó Tổng Thống, Luật Sư Đinh Trịnh Chính được bổ nhiệm làm Đại
Sứ VNCH tại Bangkok ( Chú thích của người viết : gia đình họ Đinh có 3 anh em
theo thứ tự là Kỹ sư Canh Nông Đinh Phụng, Đinh Khang và Luật sư Đinh Trịnh
Chính. Sau Hiệp Định Geneve 1954, ông Đinh Khang ở lại Hà Nội và lập gia đình với
Phan Thị Châu Sa có bí danh là Nguyễn Thị Bình).
Bật mí thứ tám : bọn VC thổi phồng các thành tích của các điệp viên nhị
trùng như Vũ Ngọc Nhạ , Phạm Xuân Ẩn, Phạm Ngọc Thảo, Huỳnh Văn Trọng, Mười Hương,
Lê Hữu Thúy….Ngay cả các nhà biên khảo của Hoa Kỳ cũng trách móc các giới chức
cao cấp của VNCH đã để cho các điệp viên Cộng Sản len lỏi vào hàng ngũ lãnh đạo
để nghe ngóng và dò la các tin TỐI MẬT bất lợi cho VNCH.
Tất cả đều không để ý đến
một chi tiết quan trọng : tất cả những VC xâm nhập chỉ tiếp cận trong KHỐI PHẢN
GIÁN, tuyệt nhiên không hề thấy KHỐI TÌNH BÁO bị xâm nhập : thời đệ nhất cộng
hòa, bác sĩ Trần Kim Tuyến phụ trách tình báo quốc gia, sau 1963 Trung Tá Lê Văn
Nhiều, rồi Đại Tá Nguyễn Ngọc Loan, tiếp theo là Trung Tướng Linh Quang Viên,
sau chót là Thiếu Tướng Nguyễn Khắc Bình. Không có bất cứ tài liệu nào liên
quan đến sự hoạt động của ngành TÌNH BÁO được tiết lộ, ngay cả những hành tung
của các cấp chỉ huy các ngành TÌNH BÁO vừa nêu , VC cũng không được biết. Suy
ra những gì mà VC rêu rao thu được thắng lợi từ các điệp viên nhị trùng của họ
chính là những điều mà tình báo Hoa Kỳ và tình báo VNCH muốn gửi cho cấp lãnh đạo
của VC được biết.
Bật mí thứ chín : giới lãnh đạo của VC huênh hoang là chiến thắng «đế quốc Mỹ» nhưng không để ý là HK «phỉnh quá thâm» nên thời gian sau này
biết được thì lại không dám thừa nhận. Thí dụ HK khen tướng Giáp không học trường
võ bị nào hết, năm 1944 chỉ huy một trung đội mà tới năm 1968 chỉ huy một số
quân đứng hạng ba trên thế giới…VNCH tổn thất khoảng 300,00 nhân mạng (căn cứ
trên báo cáo của Nha Quân Phí khi trả tiền tử tuất cho gia đình quân nhân tử trận,
VNCH có khoảng 500,000 thương phế binh (căn cứ theo báo cáo của Bộ Cựu Chiến
Binh), phía Việt Cộng tổn thất nhân mạng lên tới 800,000 vì không thấy có thương
phế binh. Sau 1975, tuy không chính thức đưa ra con số cụ thể, nhưng mọi người đều
biết BV tổn thất 3 triệu tinh binh, như vậy 800,000 là tổn thất do trực tiếp
giao chiến, số sai biệt 2.2 triệu là bị giết bởi máy bay B-52. Dẫn chứng, thân
nhân của các binh sĩ BV không thể tìm ra hài cốt vì khi trúng bom thân xác tan
ra thành tro bụi đâu còn xương cốt để mà tìm.
Hoa Kỳ không bao giờ
công bố số tổn thất của quân BV vì lý do nhân đạo : tiêu diệt 3 triệu tinh binh
của BV trên tống số 25 triệu dân (125 dân số) không phải là hay ho gì cho cả 2
bên lâm chiến.
Bật mí thứ mười : những tin tức được cố ý tiết lộ như kế hoạch lui quân của
Đại Tướng Cao Văn Viên qua «điệp viên» Ba Minh, những tin tức
HK sẽ bỏ rơi VNCH hay những tin tức HK cắt viện trợ cho VNCH…qua thu thập và lý
giải của Phạm Xuân Ẩn tức là cố ý khuyến khích BV (qua Lê Duẩn và Lê Đức Thọ)
mau mau đem đại quân (14 sư đoàn/16 sư đoàn) vào Sài Gòn cướp chính quyền, bắt Đại
Tướng Dương Văn Minh đầu hàng để Hoa Kỳ viện cớ BV vi phạm Hiệp Định Paris 1973
nên Hoa Kỳ không viện trợ 3 tỷ dollars tái thiết.
Năm 1976, khi còn đang
trong trại tù Cộng Sản, tôi đọc báo trên tờ Nhân Dân cho hay, khi thống nhất đất
nước, Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam có 45 triệu dân và GOP = Tổng Sản Lượng
Quốc Gia được 4 tỷ dollars. Trong khi đó Hoa Kỳ vào năm 1976 có 2,000 tỷ
dollars GOP, gia đình Morgan 170 tỷ, gia đình Rockefeller 127 tỷ, những con số
này chứng tỏ rằng cả nước Việt Nam cũng không bằng số lẻ của gia đình đứng hạng
nhì của Hoa Kỳ.
Tuy nhiên , chúng ta là
những con người bị thua thiệt nên bên cạnh sự mất mát chúng ta còn có cảm giác đau
đớn. Điều an ủi cho người viết là chúng ta còn có cơ hội thổ lộ tâm tình của
chúng ta với những người tri kỷ tri âm, mỗi năm đến tháng tư chúng ta lại có dịp
thổ lộ với những người tâm đầu ý hợp. Chớ còn với bọn VC chúng có nỗi khổ không
nói ra được mới là khổ thực sự nhất là chính bọn chúng không tin vào «đỉnh cao trí tuệ» như chúng mà bị bọn «tư bản dãy chết» xí gạt./.
Mùa Quốc Hận 26 tháng 4
năm 2021
Trần Trung Chính
No comments:
Post a Comment