Kissinger
Xác Nhận «Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để Thua CSVN Chứ Không Do VNCH»
Mường Giang
Posted on Tháng Mười 27, 2013 bởi BÁO TỔ QUỐC
Sau hơn ba mươi bảy năm VNCH bị sụp đổ tính từ ngày
30-4-1975, nhưng tới nay vẫn còn nhiều tác giả ngoại quốc khi viết về cuộc
chiến trên, vẫn cứ dựa vào các tài liệu tuyên truyền của cộng sản, nên thường
lý luận một chiều, đôi lúc thật hàm hồ bừa bãi. Chính những cuốn sách này, đã
khiến cho ai khi đọc tới cũng đều có cái cảm tưởng là «Những người lãnh đạo nước Mỹ lúc đó toàn ngu xuẩn hay điên rồ», nên
mới bị sa lầy và tháo chạy khỏi miền Nam, vào ngày 30-4-1975 một cách nhục nhã.
Riêng đối với người Mỹ qua thói quen tự cao tự đại, sau khi tháo chạy khỏi
chiến trường Đông Dương để bị mang tiếng bội tín với thế giới tự do, vì không
giữ được lời hứa «bảo đảm quyền sống tự
do của đồng bào Nam VN, Lào, Cambốt». vẫn cứ phải loay hoay giữa «tự ái và lương tâm» khi muốn giải đáp
trước công luận, lý do tại sao «Một cường
quốc bách chiến bách thắng như Mỹ lúc đó và ngay cả ngày nay», lại có thể
bị thua trước một đối phương nhỏ bé, lạc hậu như cộng sản Bắc Việt? cho dù đối
phương có được Nga, Tàu viện trợ và chống lưng.
Ngày nay nhờ những khai quật từ các văn khố khắp thế
giới, nhất là sự sụp đổ của gần hết khối xã hội chủ nghĩa trong đó có Liên Xô
và các nước Ðông Âu nhưng quan trọng nhất vẫn là những bản tự khai của các chóp
bu tại Bắc Bộ Phủ, cho ta nhận rõ phần nào giải đáp trên, khi đã biết rõ thực
chất của cuộc chiến Việt Nam (1955-1975). Tất cả từ đầu cho tới cuối, hoàn toàn
«không ăn nhập gì tới lòng ái quốc, yêu
nước thương dân», mà báo chí Tây Phương thường gán ghép để có cớ ca tụng Hồ
Chí Minh và đảng VC trong suốt cuộc chiến, vì họ bị tuyên truyền một chiều. Nay
sự thật đã bị phanh phui, gây chiến tại Ðông Dương lần thứ 2 (1946-1975), thật
sự «là không cần thiết lúc đó».
Vì đối với Liên Xô thời đó, gây chiến «lại là kế hoạch nô lệ hoá toàn cầu của cộng
sản đệ tam quốc tế». Ðiều này ngày nay cũng đã được nhiều cán bộ cao cấp
của VC như Trần Bạch Ðằng, Võ Văn Kiệt. . xác nhận. Còn hậu cứ lớn không phải
tại Hà Nội, mà ở tận Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh, được Hồ Chí Minh cùng đồng đảng
mang về bành trướng khắp nước. Sứ mạng của Hồ đã hoàn thành một phần, ít ra là
đã nhuộm đỏ được ba nước Việt-Lào-Cao Mên trên bán đảo Ðông Dương. Nhưng chiến
thắng không phải do quân sự mang tới, mà nhờ vào «sự hèn nhát thụ động, của tập thể quần chúng trong vùng», vì sợ sự
khủng bố tàn độc của chủ nghĩa cộng sản nên cúi đầu tùng phục, để được yên ổn
sống, dù là kiếp sống nô lệ hèn thừa bên lề đường như hiện tại trong thiên
đường xã nghĩa VN.
Do đó, hầu hết đã phó mặc vận mệnh của đất nước, của
chính bản thân và gia đình mình cho ai muốn làm lãnh tụ cũng được, coi đó như
là chuyện không có liên can gì tới họ. Tóm lại «Chiến tranh VN vừa qua» là một cuộc chiến vô cùng phức tạp, giống
như Pháp năm 1954, người Mỹ đã thua cộng sản trong mặt trận ý chí tại thủ đô
Hoa Thịnh Ðốn và tàn nhẫn bất công ngay trên đất nước mình, chứ không phải ở
chiến trường Ðông Dương. Cũng từ đó, người Mỹ thường nhắc nhớ tới thành ngữ “No more Việt Nam” như một thứ mặc cảm tội lỗi, luôn đè nặng đất nước Hoa Kỳ, cho
tới lúc Tổng thống Reagan vào ngày 21-5-1982, khai sinh một nước Mỹ mới, khi
tuyên bố chiến lược tấn công, để ngăn chận sự bành trướng của khối cộng sản
quốc tế.
Từ đó người Mỹ mới thôi cúi mặt và bắt đầu phục hồi
danh dự cho những chiến binh Hoa Kỳ, đã tham chiến tại VN từ 1955-1975 và gọi
đây là một trong những cuộc chiến chính nghĩa vĩ đại nhất, mà nhân dân Hoa Kỳ
đã thực hiện được kể từ ngày lập quốc tới nay. Ðối với VNCH dù người lính miền Nam đã
hy sinh tột đỉnh nhưng cũng chỉ giữ được nửa mảnh đất quê hương từ Bến Hải vào
tới Cà Mâu, vỏn vẹn chỉ có hai mươi năm trường kỳ máu lệ. Tất cả «không phải vì QLVNCH không chịu chiến đấu
trước kẻ thù, hoặc Miền Nam không có tướng tài và cấp lãnh đạo xứng đáng sau
khi Tổng Thống Ngô Ðình Diệm bị sát hại hay Chính Phủ VNCH không có chính nghĩa
như Thượng Nghị Sĩ Mỹ là Mc. Cain từng tuyên bố trên báo chí. .» mà là NƯỚC
MẮT NHƯỢC TIỂU VN.
Nói đúng hơn, chúng ta đã bị Thực Dân Mới nhân danh
Liên Hiệp Quốc, bán đứng trong canh bài phân chia ranh giới chính trị, quân sự
giữa hai khối tư bản và cộng sản, đã sắp xếp sẵn sau khi Ðệ Nhị Thế Chiến kết
thúc. Nhiều nước Ðông Âu kể cả Ðức cũng chịu chung số phận nhược tiểu như VN và
Cao Ly, khi nằm trong thế cờ quốc tế đã định đoạt sẵn. Nhưng may thay Họ đã tự
mình tháo gỡ được gông cùm nô lệ cộng sản vào đầu năm 1990, khi Liên Bang Sô
Viết và phần lớn khối cộng sản đệ tam quốc tế tan rã.
Tháng 7-1954, Pháp thua trận Ðiện Biên Phủ đưa tới
thỏa hiệp Genève chia hai đất nước VN, giống như tình trạng của Ðức và Cao Ly
năm 1945. Theo nhận xét của GS người Mỹ Hans Morgenthau, thì đây là trò che đậy
sự bất đồng, cũng là sự phân chia sẵn ranh giới chính trị, quân sự giữa khối
cộng sản và Tây Phương, sau khi kết thúc đệ nhị thế chiến. Tại Châu Âu, từ năm
1947 Liên Xô xé bỏ cam kết, mặc sức tung hoành, dùng quân sự lần hồi cưỡng
chiếm các nước quanh vùng, dựng khối Ðông Âu, cô lập trong bức màn sắt.
Tây Bá Linh và hai nước đồng minh của Mỹ lúc đó là Hy
Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ cũng bị nguy khốn, sắp rơi vào tay cộng sản. Ðể đối phó với
tình trạng trên, Tổng Thống Mỹ Truman buộc lòng phải ban hành chiến lược “Ngăn
Chặn”, đồng thời khai sinh chương trình “Marshall”, viện trợ giúp cho các nước
Tây Âu phục hồi kinh tế, quân sự đã bị thế chiến tàn phá. Song song Mỹ và các
nước trên thành lập Tổ chức Minh Ước Bắc Ðại Tây Dương, nhằm liên kết quân sự, để
bảo vệ lẫn nhau và chống lại sự xâm lăng của Liên Xô và khối cộng sản quốc tế.
Nói chung những nước nào được Mỹ khoanh vùng, thì
được gọi là Ðồng Minh và tận tình bảo vệ như Cao Ly và Ðài Loan ở Viễn Ðông. Nhưng
dù chiến tranh có xảy ra dưới một hình thức nào chăng nửa, kể cả cuộc chiến thế
giới tại bán đảo Triều Tiên năm 1950, thì chủ trương của nước Mỹ qua tuyên bố
của Tổng Thống Truman, chỉ để “tái lập hòa bình và biên giới sẵn có đã được qui
định từ trước”. Ðây cũng là chiến lược của Mỹ khi tham chiến tại VN từ
1960-1975, qua nhiều đời tổng thống của lưỡng đảng, chỉ nhằm mục đích «ngăn chận làn sóng đỏ đừng lấn qua ranh giới
đã phân chia sẵn», chứ không phải tới để giúp cho VN «giải phóng khỏi ách nô lệ cộng sản». Vì vậy cuối cùng để hoàn thành
chiến lược, cần phải thương thuyết hòa bình, chứ không phải đánh nhau để kết
thúc chiến tranh tại đó, khi người Mỹ đã đạt được chiến lược toàn cầu, có lợi
cho quyền lợi của nước Mỹ.
Ðiều bất hạnh nhất của dân tộc VN mà bất cứ ai cũng
nhận thấy, là đã có chung biên giới với nước Tàu. Ðã vậy còn bị lọt vào quỷ đạo
của người Mỹ, khi Hoa Lục và Bắc Việt bị nhuộm đỏ. Nên vừa nhậm chức Tổng Thống
Mỹ, Eisenhower đã tuyên bố không để mất Ðông Dương vì đây là một trong những
quân bài Domino toàn vùng Ðông Nam Á, mà VN là tiền đồn quan trọng nhất. Còn
John Kennedy, từ lúc còn là thượng nghị sĩ vào năm 1956 cũng đã coi VN rất quan
trọng trong chiến lược quốc phòng của Hoa Kỳ, qua các yếu tố địa dư chính trị. Vì
vậy khi đắc cử Tổng Thống, Ông đã chọn Miền Nam VN làm một thí điểm tại Châu Á,
để thực thi nền dân chủ tự do chống lại chủ nghĩa độc tài khủng bố cộng sản.
Ðây cũng là một cuộc trắc nghiệm đầu tiên sau hai
cuộc thế chiến vừa qua, để đo lường về ý thức trách nhiệm cùng bổn phận của siêu
cường Mỹ đứng đầu khối tự do. . chống lại chủ nghĩa cộng sản. Nhờ vậy ngày nay
người ta mới có được những kết luận rất mẫu mực, về cái gọi là «chính nghĩa mập mờ của người Mỹ tại chiến
trường VN», nói là để giúp dân tộc này chống lại cuộc xâm lăng của Bắc Việt.
Tất cả chỉ là «một chiến lược què quặt
bất nhất», do một mặt «thì sợ dư luận
của quần chúng Mỹ phản đối bị mất phiếu», mặt khác «cứ ham muốn đạt nhanh chiến thắng tại chiến trường» nhưng lại không
cho phép phe mình tấn công tiêu diệt địch quân, với lý do «sợ đụng độ với Trung Cộng». Ngoài ra các vị Tổng Thống có liên quan
tới chiến tranh VN như J. Kennedy, Johnson, Nixon và Ford đều chỉ xử dụng những
phương tiện nhỏ để đòi đạt chiến thắng lớn, nên cuối cùng phải bị sa lầy về mặt
đạo đức, làm cho nước Mỹ bị thế giới cười chê về thủ đoạn con buôn chính trị, từ
sau tháng 5-1975 tới nay vẫn chưa lấy lại được uy tín cũ đã đánh mất tại VN.
Nhưng dù tại chiến trường VN trước năm 1975, Hoa Kỳ
không hề bị sa lầy vẫn phải đóng kịch tháo chạy vì mục đích nối kết với Trung
Cộng, phá vỡ thế liên hoàn Nga-Hoa đã hoàn thành từ 1972. .
1.
Hoa Kỳ Không Bao Giờ Sa Lầy Tại Nam
VN
Sau khi rời khỏi chính trường năm 1977, Ngoại trưởng
kiêm cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, nhân vật mang tiếng đã manh tâm bán
đứng VNCH cho khối cộng sản đệ tam quốc tế, đã lần lượt xuất bản nhiều tập hồi
ký chính trị như: Những năm tháng ở Bạch Cung (1979), Niên đại sóng gió (1982) và
Bí Lục Kissinger. . đã hé mở nhiều bí ẩn lịch sử cận đại về các thời kỳ chiến
tranh lạnh giữa Mỹ-Liên Xô-Trung Cộng, Chiến tranh VN và cuộc thăm viếng Trung
Cộng của Tổng thống Mỹ Richard Nixon vào tháng 2-1972, trước khi Hà Nội mở cuộc
tấn công mùa hè vào các tỉnh Quảng Trị-Bình Long và Kon Tum, Bình Ðịnh của VNCH.
Cũng nhờ những tiết lộ này, mà ngày nay ta mới biết
được bộ mặt thật của cặp Nixon-Kissinger, chỉ vì lợi lộc của riêng mình đã bán
đứng đồng minh bạn bè cho kẻ thù. Vì muốn kéo Trung Cộng vào phe cánh, Hoa Kỳ
qua Nixon-Kissinger đã chủ động đề nghị viện trợ tối đa cho Tàu tất cả những
quân dụng vũ khí chiến lược, kể cả cung cấp vệ tinh để Tàu thu lượm tin tức
tình báo từ Liên Xô. Theo Bill Burr, chuyên gia nghiên cứu các vấn đề ngoại
giao của Mỹ, thuộc Ðại Học Washington, cũng là chủ biên hồi ký Bí lục Kissinger,
cho biết cuộc đi đêm bí mật của Kissinger tại Bắc Kinh, khởi đầu từ năm 1971
qua đề nghị Hoa Kỳ sẽ thiết lập một chương trình vệ tinh tình báo để tặng Trung
Cộng.
Sau đó tại trụ sở LHQ ở New York vào tháng 12-1971, Kissinger
đã cho Hoàng Hoa nhiều tin tức liên quan tới quân sự của Liên Xô để chuyển về
Tàu. Tuy vậy để che mắt Liên Xô và thế giới, Hoa Kỳ cũng như Trung Cộng luôn
đóng kịch kình chống nhau tại bàn hội nghị. Như trường hợp VN, trước khi Tổng
thống Nixon chính thức thăm Trung Cộng và sau này, Kissinger đã bí mật tới Bắc
Kinh rất nhiều lần để gặp cả Mao-Chu và Trung Cộng cũng đã đáp ứng cho Mỹ thiết
lập một trạm tình báo quân sự, dọc theo biên giới Nga-Hoa để thu lượm tin tức, theo
dõi tình hình chuyển động của Liên Xô.
Tháng 7-1973, một điệp viên CIA tên James Lilley được
cử giữ chức trưởng trạm tình báo này, cũng là người trực tiếp phụ trách đường
dây liên lạc Trung-Mỹ. Tháng 4-1975 theo yêu cầu của Ðặng Tiểu Bình, Tổng thống
G. Ford đã viện trợ cho Trung Cộng rất nhiều quân trang dụng chiến lược, trong
đó có nhiều thiết bị điện tử dùng để chế tạo vũ khí bom đạn hiện đại. Kissinger
còn tiết lộ nội dung cuộc họp thượng đỉnh giữa Nga-Mỹ cho Trung Cộng. Tất cả
cho thấy mức độ khả tín của người Mỹ trong lúc cùng hợp tác đồng minh, để từ đó
chúng ta mới nhận diện rõ ràng «về ý nghĩa
của sự sa lầy tại VN», mà các sử gia trong và ngoài nước thường hay gán
ghép cho Hoa Kỳ.
Ðọc lịch sử nước Mỹ, ta thấy dù dân chủ hay cộng hòa,
tổng thống hèn kém như Carter hoặc cứng rắn cỡ Reagan, thì ưu tiên số 1 của
chính phủ cũng vẫn là làm sao cho dân chúng Hoa Kỳ được hưởng thụ nhiều hơn
trước, để đảng nọ đảng kia mới còn cơ hội tái đắc cử cầm quyền tiếp. Hiểu thêm
điều này nữa, mới cảm thấy bớt uất nghẹn khi biết Tổng thống Johnson đã đưa vào
VN tới 550. 000 quân + 80. 000 của các nước Ðồng Minh và 150 tỷ đô la chiến phí.
Rồi đang lúc VNCH sắp đạt được chiến thắng cuối cùng, qua các trận đại chiến
vào Tết Mậu Thân 1968, các cuộc hành quân Toàn Thắng vượt biên giới sang
Kampuchia 1970 và nhất là trận Mùa Hè Ðỏ Lửa 1972. . thì Tổng Thống Mỹ là Nixon,
kế thừa chiến lược của TT. Johnson lại ký Hiệp ước ngưng bắn Paris
1973 «tháo chạy khỏi VN», bỏ mặc cho
Miền Nam
bị toàn khối cộng sản đệ tam quốc tế” cưỡng đoạt vào trưa ngày 30-4-1975”.
Ngày nay nhờ Quốc Hội Mỹ đã thông qua đạo luật “Quyền tự do tư liệu và thông tin”, nên Thư Viện Quốc Gia Mỹ đã giải cấm những
văn kiện tuyệt mật, có liên quan tới cuộc chiến Ðông Dương lần 2 (1945-1975), qua
nhiều đời Tổng Thống Mỹ liên hệ, từ Truman cho tới Carter. . Nhờ vậy người
ngoài mới biết được những bi hài kịch đã diễn ra suốt thời gian Mỹ tham chiến
tại VN, ngay trong hậu trường của những chóp bu tại Tòa Bạch Ốc, mà những nhân
vật quyết định vận mạng của VN, phần lớn là Dân Sự hay Chuyên Viên Hành Chánh, trong
đó hầu hết chưa một ngày ở trong quân ngũ hay trốn quân dịch như trường hợp của
Tổng Thống Bill Clinton sau này.
Ðó là việc quân lực Mỹ chưa bao giờ được phép xử dụng
hết khả năng chiến đấu, nhất là hai quân chủng Không và Hải quân Hoa Kỳ, chủ
nhân ông của bất cứ chiến trường nào, rất được thế giới nể sợ. Còn một bí mật
khác cũng không kém phần bi thảm, đó là khi Mỹ đưa quân đội mình tới chiến đấu
ở VN, thì cũng đồng lúc tư bản Mỹ tha hồ xuất cảng quân trạng dụng sang Nga, các
nước Ðông Âu lẫn Tàu. Sau đó các nước này thay nhãn đổi hiệu, rồi lại chuyển
tiếp tới Hà Nội, để Bắc Việt chuyển vận vào Miền Nam cho Bộ đội Cộng Sản có
phương tiện dồi dào, bắn giết chẳng những QLVNCH mà cả quân Mỹ và các nước đồng
minh đang chiến đấu tại chiến trường.
Nói chung dù có thái độ cứng rắn như Tổng thống
Truman, trước chủ nghĩa bành trướng sắt máu của Trùm Ðỏ Staline vào năm 1947
hay to miệng nhảy múa chống cộng cùng mình như Tổng thống Nixon, thì cuối cùng
cũng vẫn là cùng thỏa thuận với nhau để chia chiến lợi phẩm trên xác chết của
con mồi. Ðó là chân lý của nền chính trị con buôn kiểu tư bản Mỹ, vừa la làng
xúi giục cũng như viện trợ để đồng minh chống cộng. Rồi cũng Mỹ lại rất tích
cực buôn bán đủ thứ kể cả quân dụng vũ khí tối mật quốc phòng với các nước cộng
sản trên. . như hiện tại cuộc giao dịch giữa Mỹ và hai nước Trung Cộng-Ðài Loan,
ai cũng thấy. Ðây cũng là một chứng minh thực tế, để cho bất cứ ai còn đang
mang ảo tưởng vọng ngoại, trong công cuộc quang phục đất nước khỏi gông cùm
cộng sản, xin chớ có hoài công đợi chờ. Vì con đường giải thể chế độ VC hiện
nay chỉ có toàn dân VN phải chịu lăn xả hy sinh đổ máu như người Miến, người
Tạng. . thì mới hy vọng tháo gỡ được cùm gông, vì chính họ trong quá khứ đã tự
mình mang vào cổ ách nô lệ cộng sản.
2. Hoa Kỳ Tự Trói Tay Để
Thua CS Bắc Việt, Chứ Không Phải Tại VNCH
Riêng về câu hỏi tại sao siêu cường Mỹ với một bộ máy
chiến tranh ghê gớm, lại để cho 55. 000 quân sĩ thiệt mạng và mấy trăm ngàn
người khác bị thương? cuối cùng tháo chạy, sau khi chỉ lấy được về nước, một số
tù binh bị Bắc Việt cầm tù. Ðô đốc Grant Sharp, cựu tư lệnh Quân Lực Hoa Kỳ tại
Thái Bình Dương, đã giải thích “cuộc chiến thất bại không phải vì chống không
lại địch quân, mà vì chính sách của Hoa Thịnh Ðốn đã đẻ ra quá nhiều chiến lược,
nào leo dần tới đáp ứng, rồi đang mềm dẻo đột nhiên dội bom, sau đó tự ý ngưng
và thương thuyết tại bàn hội nghị để đạt chiến thắng. Cuối cùng tự mình trói
tay đầu hàng, rồi tháo chạy khỏi chiến trường, dù chẳng hề bị sa lầy hay bị lâm
vào tuyệt lộ” .
Ðây cũng là kết quả như lời cảnh giác của Tướng
Maxwell Taylor, nguyên cố vấn quân sự của Tổng Thống J. Kennedy từ năm 1961:
«Nếu Hoa Kỳ tới VN với mục đích tối hậu, là giúp cho nước này chống lại sự xâm
lăng của cộng sản, thì cuộc chiến sẽ không có giới hạn, nên chúng ta không thể
không đánh thẳng ra Hà Nội, để tiêu diệt sào huyệt của chúng». Nhưng tiếc thay
đất Bắc nơi phái sinh ra cuộc chiến VN, lại là vùng đất bảo đảm an toàn nhất, mà
các tổng thống Mỹ dành cho VC. . Ðã vậy TT Johnson còn cấm quân Mỹ không được
tấn công hay truy sát quân Bắc Việt, tại lãnh thổ Lào và Kampuchia giáp ranh
với VN. Trong khi đó ai cũng biết trên phần đất này, Hà Nội đang mở đường mòn
HCM, lập các khu hậu cần, mật khu, tích trữ lương thực quân dụng và tập trung
quân để tấn công vào lãnh thổ VNCH. . Chính cựu Tổng thống Eisenhower cũng lên
tiếng thắc mắc là tại sao TT. Johnson lại không dám tấn công thẳng vào đầu nảo
của quân Bắc Việt tại Hà Nội, trong lúc đó hầu hết tướng lãnh Mỹ thì phẫn nộ, vì
nhận được lệnh đánh nhau với VC phải đạt chiến thắng nhưng hai tay họ thì bị
trói chặt bởi các luật lệ.
Có thể dùng thời điểm Tổng Thống Mỹ Eisenhower gởi
thư thông báo cho Thủ Tướng Ngô Ðình Diệm vào tháng 10-1954 với lời hứa giúp
VNCH trở thành một quốc gia mạnh, trường tồn, có khả năng chống lại mưu toan
xâm lăng của Bắc Việt. . như là một cột mốc quan trong về sự nhập cuộc của Hoa
Kỳ tại VN. Năm 1961 lúc Tổng Thống J. Kennedy nhậm chức, quan điểm của nước Mỹ
vẫn không thay đổi về việc Bắc Việt đang xâm lăng VNCH, qua hình thức lập Mặt
Trận Giải Phóng Miền Nam .
. Tuy nhiên trong thành phần chính phủ Mỹ lúc đó đã có nhiều khuynh hướng, như
thay thế Tổng Thống Ngô Ðình Diệm hay tăng cường viện trợ, quân sự kể cả gởi
quân tới giúp VNCH chiến đấu chống lại sự xâm lăng của Hà Nội. Sự tự tin hiểu
biết về tình hình VN của các tổng thống Mỹ, sau này được các nhà báo Norman
Podhoretz, Theodore H. White. . mai mỉa là không nhũn nhặn mà cũng chẳng khôn
ngoan chút nào, khi thật sự Hoa Thịnh Ðốn lúc đó không hiểu biết cho mấy về cái
chiến trường VN nhỏ bé xa xôi tận miền Viễn Ðông, thế mà dám đề ra phương thức,
chiến lược tràng giang, để giải quyết tình hình chính trị, xã hội, quân sự, kinh
tế của đất nước ấy.
Ðiều này mãi tới năm 1981 mới thấy một sĩ quan cao
cấp Mỹ nêu lên trong tác phẩm của mình “chiến tranh tại VN là chiến tranh du
kích, đáng lẽ ngay khi nhập cuộc, quân đội Mỹ phải hiểu rõ thực chất của cuộc
chiến, để có chiến thuật chống khuynh đảo, diệt du kích, mà quân đội của các
nước khác đều được huấn luyện học hỏi, trước khi nhập trận”. Tóm lại như Nixon
đã nhận biết từ năm 1954, cộng sản dùng chiêu bài “chiến tranh giải phóng”, để
mà xâm nhập và khuynh đảo chính trị tại Nam VN, chứ không bao giờ công khai
vượt tuyến như tại Triều Tiên năm 1950. Thêm một điểm đặc biệt khác, là lúc đầu
những người trí thức và khoa bảng Mỹ gần như thờ ơ không ngó tới việc Hoa Kỳ
tham chiến tại VN.
Nhưng từ giai đoạn 1967 về sau, nhất là sự kiện cộng
sản bị thảm bại trong trận tổng công kích Tết Mậu Thân 1968, thì giới trên nhập
cuộc qua phong trào phản chiến trên đất Mỹ, chống đối và đánh phá chính phủ dữ
dội, còn hơn VC thứ thiệt ở VN cũng chưa thấy hoạt động công khai dữ dằn như
phong trào phản chiến tại Mỹ. Ðây là một nghịch lý nổi bật và mai mỉa nhất của
Mỹ, trong cuộc chiến VN. Ðó là sự kiện công dân Mỹ (như đào hát Jane Fonda chẳng
hạn), đã công khai đứng hẳn về phía Hà Nội, cổ võ cho giặc chống lại quân đội
và chính phủ mình, qua các cuộc biểu tình phản chiến, cầm cờ máu đốt cờ Mỹ, lên
đài phát thanh truyền hình chửi bới hay tới tận Hà Nội để hoan hô Hồ Chí Minh.
Khi than rằng “Chúng ta đã đánh bại chính ta” , đó
là nhận xét của Tổng Thống Johnson về nước Mỹ và ngay cả bản thân mình, trong
suốt thời gian cầm quyền với một sức mạnh quân sự vô địch, nhưng đầu óc lại chỉ
nghĩ tới chiến thắng VC bằng chính trị, một chiến lược giá rẻ, mà không một nhà
lãnh đạo nào của thế giới nghĩ tới sự kỳ quặt này, nhất là khi phải đối mặt với
những kẻ sát nhân khủng bố thâm độc như cộng sản quốc tế. Năm 1967 Nixon nhậm
chức tổng thống, khiến ai cũng nghĩ tới nước Mỹ sẽ leo thang chiến tranh, vì ông
ta là một nhân vật diều hâu có môn bài. Ông ta cũng giống như TT Kennedy và
Johnson, có chung mục tiêu là cả ba đều cương quyết không muốn VNCH phải sụp đổ
vì Bắc Việt xâm lăng.
Nhưng cả ba đã lầm lẫn chiến lược lúc nhập cuộc. Với
TT Kennedy và Johnson, cả hai cùng chủ trương tham chiến trong giới hạn, để
không gây xáo trộn tại chính quốc, nên nói ngăn chận nhưng vẫn không cản nổi sự
xâm nhập của bộ đội từ bắc vào nam và sự khuynh đảo chính trị tại VNCH. Khi
Nixon lên cầm quyền, cũng là lúc nước Mỹ qua vai trò của Kissinger, đang đi đêm
để nhun nhén sự nối kết Mỹ-Hoa, phá thế liên hoàn Nga-Trung, trong thế cờ thời
chiến tranh lạnh giữa ba nước Hoa Kỳ-Liên Xô và Trung Cộng. Bởi vậy Nixon không
bao giờ dám leo thang chiến tranh tại VN, vừa phản lại lời hứa “rút quân” khi
ứng cử, vừa làm mất sự thân thiện với Trung Cộng lẫn Nga đang cổ võ và ủng hộ
VC cưỡng chiếm miền Nam. Ðó là lý do Nixon trao lại cuộc chiến đang tiếp diễn
ác liệt tại chiến trường Nam VN, cho VNCH tự lo liệu, qua danh từ hào nhoáng «Việt Nam Hóa Chiến Tranh».
Sau này qua các hồi ký chính trị của những nhân vật
thân cận cao cấp của Chính Phủ VNCH như Nguyễn Tiến Hưng, Hoàng Ðức Nhã, ta
mới biết được gánh nặng của các nhà lãnh đạo VNCH suốt 20 năm tồn tại, từ Tổng
Thống Ngô Ðình Diệm tới TT Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương. . tất cả đều bị
Hoa Kỳ dùng viện trợ và sinh mệnh, để áp lực VN phải thi hành theo đường hướng
của Mỹ, nhất là sự ký kết hiệp ước ngưng bắn ngày 27-1-1973. Ngoài ra những bức
thơ viết tay của Tổng Thống Nixon và Ford, gửi mật cho TT. Nguyễn Văn Thiệu, với
sự trang trọng cam kết, đã nói lên cái gọi là “thực chất của sự mưu tìm hòa
bình trong danh dự” và trên hết đã phần nào lột trần hai nhân vật “Nixon-Kissinger”, trong vai trò chủ động tháo chạy khỏi Miền Nam, để khỏi bị sa
lầy.
Không được đáp ứng theo nhu cầu đòi hỏi, TT J. Kennedy
đạo diễn tấn tuồng binh biến ngày 1-11-1963 hạ sát TT hợp pháp của VNCH là Ngô
Ðình Diệm, để gây xáo trộn chính trị suốt ba năm, rồi kết luận miền Nam thiếu
lãnh đạo. TT Nixon và cố vấn an ninh quốc gia Kissinger, dùng đủ mọi thủ đoạn, kể
cả hành động đê tiện là đe doạ ám sát TT Nguyễn Văn Thiệu, để hoàn thành cho
được bản hiệp ước ngưng bắn Paris 1973, mới có
cớ hợp thức cho phép bộ đội miền Bắc có mặt tại miền Nam . Nói là “Việt Nam Hóa Chiến
Tranh” nhưng lại cắt viện trợ, ngưng cung cấp quân trang dụng như lời hứa, khiến
cho QLVNCH lâm vào tình trạng kiệt quệ, phải bỏ nhiều phần lãnh thổ vì không có
phương tiện để phòng thủ.
Rồi trong lúc Bắc Việt xua hết lực lượng, tấn công
cưỡng chiếm VNCH, thì người Mỹ tháo chạy trong danh dự, suốt đêm trên nóc nhà
bằng trực thăng, qua sự đùm bọc bảo vệ an ninh của QLVNCH lúc đó.
Cuối cùng từ ấy đến nay, vẫn không ngớt đổ tội cho
QLVNCH là không chịu chiến đấu, nên quân đội Mỹ phải sa lầy và Miền Nam
mới bị sụp đổ.
Nhưng giấy làm sao gói được lửa và chắc là bị lương
tâm cắn rứt dầy vò chịu không nổi, nên cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, trong
cuộc hội thảo tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ ngày 29-9-2010 đã tự thú «Sự thảm bại tại VN vào ngày 30-4-1975 là do
Hoa Kỳ gây nên, chứ không phải VNCH».
Lời phát biểu trên của Kissinger, tuy quá muộn màng
vì thời gian dài hơn 1/3 thế kỷ nhưng có còn hơn không, vì ít ra ông cũng còn
đủ can đảm đứng ra gián tiếp thay mặt cho nước Mỹ để trả lại sự công bằng và
danh dự cho QLVNCH.
Viết từ Xóm Cồn Hạ Uy Di
Tháng Tư Đen Quốc Hận 2012
Mường Giang
No comments:
Post a Comment